Chủ Nhật, 17 tháng 5, 2009

HUỲNH THÚC KHÁNG - CON NGƯỜI CỦA BAO NỖI TRĂN TRỞ


TS: HOÀNG VĂN QUANG

Một ngày cuối năm 1876 tại làng Thạnh Bình tiêu điều, xơ xác thuộc huyện Tiên Phước tỉnh Quảng Nam, cậu bé Huỳnh Hanh đã cất tiếng khóc chào đời trong căn nhà lá lụp xụp. Cái đói, cái nghèo cùng cậu lớn lên. Tuy không được thừa hưởng truyền thống Nho học từ tổ tiên nhưng ông cụ thân sinh vẫn cố làm lụng, dành dụm cho cậu theo đòi bút nghiên. Không phụ lòng cha, cậu sớm khuya dùi mài kinh sử và cuộc đời đã không bỏ dơi đứa trẻ có chí khí. Năm 22 tuổi (1900) Huỳnh Hanh lần đầu lều chõng đi thi và đậu cử nhân. Cũng từ thời khắc này cái tên Huỳnh Thúc Kháng gắn liền với cuộc đời nhà chí sĩ. Mẹ ông, người cả đời khó nhọc lo cho chồng con, đã thanh thản nằm xuống sau khi nghe tin ông đỗ đạt. Chế độ phong kiến xưa quy định người có đại tang không được ứng thí, nên phải 4 năm sau (1904) Huỳnh Thúc Kháng mới tiếp tục thi và đỗ tiến sĩ.
Không như nhiều kẻ khác, dùng bằng cấp để vinh thân phì gia, Huỳnh Thúc Kháng từ chối quan lộ, về quê nhà với thú vui đọc sách và cũng để tìm tòi cho mình một hướng đi. Được hơn một năm (1905), ông cùng Phan Chu Trinh, Trần Quý Cáp lên đường vào Nam bắt đầu cuộc đời tranh đấu trôi nổi. Để kiếm kế sinh nhai nơi đất khách quê người, ông mở một lớp dạy học. Là một trong những yếu nhân của phong trào Duy Tân, ông bị mật thám Pháp để ý, theo dõi. Nhân vụ “xin xâu” ồn ào thời đó (3.1908), thực dân Pháp cấu kết với triều đình Huế đã bắt đầu và xử ông mức án trung thân, đày đi Côn Lôn. Sau 13 năm tù hãm, năm 1921 Huỳnh Thúc Kháng được trả tự do, nhưng chính quyền thực dân nào có buông tha. Vừa về tới đất liền, ông đã được khâm sứ Trung kỳ gọi lên dụ dỗ mời ông giữ một chức quan ở Bác cổ viện (Huế). Huỳnh Thúc Kháng đã khôn khéo từ chối.
Vào những năm 1925 – 1926, tình hình chính trị Việt Nam có nhiều biến động lớn. Một số tổ chức, đảng phái ra đời khuấy động hàng loạt phong trào
đấu tranh mang ý nghĩa toàn dân như các cuộc biểu tình đòi thả Nguyễn An Ninh, Phan Bội Châu, đám tang Phan Chu Trinh, rồi phong trào tẩy chay Hoa kiều được phát động từ đầu năm 20 đã gây nên những xáo động lớn trong xã hội. Thực tế này buộc người Pháp phải tiến hành cải cách về kinh tế, giáo dục, văn hóa thậm chí cả bộ máy cai trị nhằm làm dịu tình hình. Tính dân chủ giả hiệu núp bóng dưới hình thức chính thể đại nghị được người Pháp khởi xướng. được sự động viên của mọi người, Huỳnh Thúc Kháng ra ứng cử ở 3 hạt Tam Kỳ, Tam Phước, Thăng Bình và đã trúng cử với số phiếu cao nhất. Do có uy tín rất lớn trong dân chúng, ông còn được bầu làm Viện trưởng Viện Dân biểu Trung kỳ. Sau hơn một năm làm việc cho “nhà nước” Huỳnh Thúc Kháng quyết định ra báo Tiếng Dân, ước mơ ông đã ấp ủ từ lâu. Điều không ngờ là đơn xin phép ra Tiếng Dân của Huỳnh Thúc Kháng được chính quyền thực dân chấp nhận ngay.
Trước Tiếng Dân, ở miền Trung hầu như chưa có một từo báo chính thức nào. Vào năm 1922 ở Qui Nhơn mới chỉ có tạp chí “Lời thăm các thày giảng”. Vào những năm 1925 -1926 Nguyễn Bá Trác, Phan Bội Châu và một số người khác cũng có ý định ra báo nhưng đã bị chính quyền Nam triều ngăn trở. Nguyên nhân nào khiến nhà nước cho phép Huỳnh Thúc Kháng – một cựu chính trị phạm ra báo, đến nay vẫn có nhiều ý kiến. Có lẽ, tình hình này xuất phát từ mấy lí do:
- Người Pháp cho rằng hơn chục năm tù đầy đã làm nhụt tinh thần yêu nước của nhà chí sĩ. Việc Huỳnh Thúc Kháng gia nhập vào Viện Dân biểu chính là thoả hiệp từng bước với nhà nước.
- Thời điểm Huỳnh Thúc Kháng nộp đơn ra báo cũng là lúc người Pháp đang tiến hành một sỗ cải cách xã hội. Xu hướng cải lương của Huỳnh Thúc Kháng ít có khả năng gây ra những đột biến xã hội lớn, nhiều khi còn phù hợp với những ý đồ chính trị của người Pháp. Việc nương tay với Huỳnh Thúc Kháng chắc chắn sẽ đạt được hiệu quả tuyên truyền nào đó.
Khi ứng cử vào Viện Dân biểu, Huỳnh Thúc Kháng ít nhiều có ảo tưởng là sẽ dùng diễn đàn này để nói lên khát vọng của quần chúng nhân dân. Nhưng chỉ sau hơn một năm ý đồ đó đã tan thành mây khói. Nhận thức rõ vai trò nghị
Viện của mình chỉ mang tính chất bù nhìn, ông cùng một số người quyết định từ chức, dành trọn tâm huyết cho nghề báo. Là một nhân sĩ khoan hoà, không màng danh lợi, suốt đời trăn trở với số phận của đất nước, Huỳnh Thúc Kháng luôn được đông đảo các tầng lớp ủng hộ. Và lẽ đương nhiên, cũng có không ít kẻ đã lợi dung uy tín của ông để trục lợi. Khi chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ, Nhật nhảy vào Đông Dương, lấn lướt dần vai trò của người pháp với các thuyết đồng chủng, xây dựng khối phòng thủ chung đại Đông Á.
Huỳnh Thúc Kháng là một trong những đối tượng đầu tiên được người Nhật mời ra cộng tác. Vì là con người quá trung thực, nhiều khi đến mức cả tin, Huỳnh Thúc Kháng có lúc đã hy vọng vào anh bạn da vàng này, trong nhờ họ giúp đỡ cho các lực lượng chống Pháp ở trong nước. Sau khi nhận được bức thư của Cường Để (1942), Huỳnh Thúc Kháng đã có một số cuộc tiếp xúc với giới thân Nhật, đặt trọn niềm tin vào những kẻ tự nhận là kế tục sự nghiệp của Phan Bội Châu. Mong mỏi này không kéo dài được lâu khi hàng ngày Huỳnh Thúc Kháng phải chứng kiến lối hành xử tàn bạo của phát xít Nhật đối với người bản địa. Thì ra, ở đâu cũng vậy, không thể có sự đồng cảm giữa kẻ đi xâm lược và người bị xâm lược. Chính vì lẽ đó mà khi Bảo Đại hồn loan, có mời Huỳnh Thúc Kháng ra “bàn việc nước” nhưng đã bị ông kiếm cớ thoái thác.
- Không hoàn toàn tán thành chủ trương “đừngbạo động, bạo động là chết” của Tây hồ Phan Chu Trinh, lại càng không đồng ý với những lời ra rả cuả Sào nam Phan Bội Châu từ nước ngoài kêu gọi toàn dân đứng lên giết giặc cứu nước, vậy đường lối chính trị của Huỳnh Thúc Kháng là gì? Đây là vấn đề được bàn đến khá nhiều. Hầu hết đều đi đến kết luận những động thái chính trị của Huỳnh Thúc Kháng chủ yếu theo xu hướng cải lương. Điều đó là chính xác nhưng xu hướng cải lương đó có những nét đặc thù nào so với những quan niệm đương thời thì lại không được ai chỉ rõ. Qua những bài “Chánh thể đại nghị ở xứ ta”, bài “Cùng các ông đại biểu” (số 189, 190,154) chúng ta thấy rất rõ Huỳnh Thúc Kháng tuy phê phán rất mạnh chế độ nghị trường, bóc trần tính chất bù nhìn của Viện Dân biểu nhưng sự phê phán này lại không nhằm xoá bỏ Viện Dân biểu. Chúng là tập hợp những gợi ý giúp nhà cầm quyền có những cải cách để viện này thực sự là cơ quan hữu ích cho toàn dân. Nghị hòn, nghị gật, nghị dựa cột, nghị bình hoa được Tiếng Dân mô tả khá hài hước:

“ Sân khấu đã ra tranh một ghế
Vai tuồng cũng phải hát đôi câu
Cơ quan hợp tác chừng ra thế?
Chánh thể văn minh thực ra đâu?
Biết chăng tấm lòng dân ước mỏi
Đã qua năm trước ngóng năm sau”

Tha Sơn Thạch – Tiếng Dân số 175 – 18.8.1928
Dù ở cương vị nào, bị xã hội xô đẩy đến đâu, Hùnh Thúc Kháng vẫn giữ trọn tiết tháo của một kẻ sĩ, chỉ biết tận tâm tận lực với quốc gia đại sự. Tên tuổi ông gắn liền với tờ Tiếng Dân, ngọn cờ đầu của dòng báo chí yêu nước miền Trung nói riêng, cả nước nói chung. Tiếng Dân được phép xuất bản theo nghị định ký ngày 12.2.1927 của toàn quyền Đông Dương P.Pátxkiê. Tờ báo in khổ 58 x42cm phát hành mỗi tuần 2 kỳ. Trong thời kỳ vận động dân chủ 1936 – 1939, để tăng hiệu quả tuyên truyền báo ra tuần 3 kỳ. Khi Nhật vào Đông Dương, báo chí bị kiểm soát ngặt nghèo, Tiếng Dân quay lại lề lối cũ, ra vào thứ tư, thứ bảy hàng tuần. Mặc dù chỉ in 4 trang, nhưng do khổ to, nên dung lượng bài vở của báo khá lớn.
Trước khi xin phép ra báo, Huỳnh Thúc Kháng và Phan Bội Châu (đồng sáng lập báo Tiếng Dân) đã có sự bàn bạ kỹ lưỡng từ việc đặt tên báo đến hình thức tồn tại, thu gom bài vở, xây dựng đội ngũ cộng tác viên... Được sự ủng hộ nhiệt tình của các cổ đông, chỉ trong thời gian ngắn, số tiền huy động được đã
lớn gấp 3 lần so với dự kiến (3000 đồng). Số tiền thừa đó được Huỳnh Thúc Kháng dùng để mua nhà in riêng. Ngay từ đầu Huỳnh Thúc Kháng đã xác định quan điểm của mình cùng các đồng sự:
1. Quyết mở một tờ báo riêng cho xứ Trung kỳ, giữa kinh đô nước Việt Nam, dầu ra đươck 5,7 số mà chết cũng vui lòng.
2. Theo thuyết chính danh của Khổng Tử, làm đúng như tên Tiếng Dân, thà chế quyết không để cái gì lay chuyển lôi kéo đi đường khác.
3. Giữ cái tinh thần phương Đông “Quốc hữu” cùng nuôi đốm lửa nhiệt thành ái quốc của các nhà tiên thời trong đống tro tàn, không để đứt mất.
(Ý kiến của ông Huỳnh Thúc Kháng đối với thời cuộc - Nhà xuất bản Tiếng Dân).
Vì tự coi mình như vật “quốc hữu” nên ngay từ đầu Huỳnh Thúc Kháng đã xác định vai trò cụ thể cho Tiếng Dân, coi tờ báo là sở hữu chung của toàn dân. Chính vì vậy mà cộng sự của Tiếng Dân đều là những người tâm huyết, được lựa chọn kỹ càng. Hầu hết họ đều sinh ra tại miền Trung, gắn bó với mảnh đất này. Tuy đôi khi có những chính kiến khác nhau, nhưng giữa họ luôn có điểm chung thống nhất đó là tầm kiến thức uyên bác và đặc biệt đều có tấm lòng yêu nước nồng nàn, thuỷ chung son sắt. Ngoài hai bậc lão thành Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng là các bậc túc nho có tiếng như Trần Đình Phiên, Nguyễn Quí Hương, Đào Duy Anh. Về chí hướng chính trị lớn có Nguyễn Trí Diểu, Võ Nguyên Giáp, Hải Triều (Nguyễn Khoa Văn). Những ký giả tận tuỵ phụng sự hết lòng cho sự phát triển của tờ báo như Lê Nhiếp, Nguyễn Xương Thái, Vương Đình Quang... Ngoài ra báo còn nhận được sự cộng tác của những cây bút tên tuổi như Đặng Thai Mai... vốn là con người cẩn trọng, Huỳnh Thúc Kháng bao quát mọi khâu từ viết bài đến biên tập, lên trang, theo dõi in, quản lý nhân sự. Sự sát sao này khiến cho Tiếng Dân, suốt 16 năm tồn tại ít có bài mâu thuẫn, đối lập về khuynh hướng, tư tưởng, tạo được sự thống nhất về quan điểm lập trường.
Đây là cây bút chính của tờ báo, Huỳnh Thúc Kháng phải sử dụng nhiều bút danh khác nhau, tuỳ theo từng tính chất, nội dung bài viết. Đối với những bài đặc biệt quan trọng, có tác động lớn đến xã hội, ông mới ký Huỳnh Thúc Kháng, Minh Viên. Còn thường thì ông ký Tha Sơn Thạch, Khỉ ưu sinh, Xà túc tử, Ưu thời khách, Nga sơn, Hải Âu, Điền dân, Thức tự dân, Tiếng Dân... Tiếng Dân ra đời đúng vào thời điểm xã hội Việt Nam có nhiều biến động lớn. Các tổ chức, đảng phái chính trị hoạt động khá rầm rộ, nhưng vẫn còn ấu trĩ, hỗn tạp. Trong số đó, đáng chú ý hơn cả là Việt Nam quốc dân đảng, một đảng phái được hình thành trên cơ sở thuyết Tam dân của Tôn Trung Sơn. Tư tưởng không thành công cũng thành nhân, c hỉ chống đế quốc thực dân, không chống phong kiến, mọi giai cấp Việt Nam đều là bạn đã có sức tác động rất lớn đến tầng lớp nhà Nho cũ. Do ngay tà đẫu đã không tán thành chủ trương bạo động nên Huỳnh Thúc Kháng tuy có thiện cảm với Việt Nam quốc dân đảng nhưng ông vẫn giữ thái độ khá dè dặt. Sau vụ ám sát trùm mộ phu Badand (9.2.1929) Việt Nam quốc dân đảng bị khủng bố dữ dội. Nhiều người bị bắt, bị đưa ra xét xử, trong đó đa phần là thanh niên. Nhân sự kiện này Tiếng Dân có bài “Một mối cảm tưởng đối với vụ án Việt Nam quốc dân đảng” đăng liền 3 kỳ vào tháng 7.1929. Bài báo không tỏ rõ thái độ bênh vực hay phê phán những người chủ trương vụ ám sát mà chủ yếu chỉ trích đường lối bạo động của đảng này “Sao lại ưa điều hại, thích điều nguy, vui như sự hoạ mà sụt xuống tròi lên, cứ diễn lại cái tuồng bi kịch mà không chừa như thế...”. Có thể nói, những điều Tiếng Dân muốn nhắn nhủ như dễ làm nhụt đi nhuệ khí đấu tranh cách mạng đang lên, thậm chí còn phụ hoạ với ý đồ của nhà cầm quyền. Bài báo còn đưa ra giải pháp “Muốn nước không sôi thì chi bằng dụi củi dưới bếp ra, mở đường tương lai thế nào cho bọn thanh niên trước là có nơi đứng chân sau là thối lui lại, cũng không đến lỗi sinh đường tuyệt vọng, ấy là một điều ổn thoả”. Bài viết dễ gây cho người đọc cảm giác Tiếng Dân quá tin tưởng vào sự “sống chung hoà bình” giữa giai cấp thống trị, kẻ đi xâm lược với người dân mất nước, miễn là giữa họ
phải có sự đồng cảm, thoả hiệp. Ảo tưởng này không chỉ diễn ra với Tiếng Dân. Nhiều tờ báo, nhiều nhân sĩ tiếng tăm được quần chúng nhân dân sùng bái thời đó cũng quan niệm như vậy.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914 - 1918) người Pháp buộc phải thực hiện một số điều mà họ đã hứa trước đây đối với các xứ thuộc địa, trong đó có Đông Dương. Chủ trương Pháp – Việt đề huề, Pháp – Việt nhất gia do A. Sarô khởi xướng cùng với việc đổ tiền của đầu tư vào Việt Nam, rồi những cách tân về giáo dục có thể nói đã cơ bản làm thay đổi diện mạo nước ta. Chỉ trong vòng có 5 năm (1930 - 1935) số trường học trong cả nước đã tăng gấp đôi, thu nhập bình quân đầu người cũng tăng đáng kể, tệ nạn xã hội giảm, thanh niên được tự do tham gia vào các hội, đoàn thể. Đặc biệt ngày 1.1.1935 toàn quyền Rôbanh đã ký sắc lệnh bãi bỏ chế độ kiểm duyệt báo chí. Những thay đổi chủ yếu mang tính hình thức này đã làm cho không ít người nghi ngờ ngay chính quan điểm đấu tranh của mình trước đây, nói gì tới tầng lớp bình dân, ít học. Nhiều người đã tin vào “thiện chí” của người Pháp. Quan niệm coi người Pháp là bạn, là thầy, “không nên không phải thì đóng cửa bảo nhau” là giọng điệu quen thuộc của khá nhiều tờ báo hợp pháp thời bấy giờ. Tiếng Dân, một tờ báo chưa có sự giác ngộ của ý thức hệ tư tưởng tiên tiến, cũng bị rơi vào vòng cương toả đó là lẽ đương nhiên. Năm 1946, ông Vương Đình Quang, nguyên thư ký toà soạn báo Tiếng Dân, là người bạn thâm giao của Huỳnh Thúc Kháng có ý định viết một cuốn sách khảo cứu về nhà chí sĩ. Huỳnh Thúc Kháng đã từ chối đề nghị trên. Về việc này có người cho rằng Huỳnh Thúc Kháng thuộc thế hệ nhà Nho cũ ưa đời sống phẳng lặng, ẩn dật, không thích phô trương nên mới phản đối thiện chí của bạn. Thực tế chỉ đúng một phần. Nguyên nhân sâu sa là Huỳnh Thúc Kháng không muốn người đời khơi gợi lại những nhận định ngây thơ của ông về người cộng sản vào những năm 1929 - 1930.
Trước năm 1930, Tiếng Dân đã từng có nhiều bài bàn về chủ nghĩa cộng sản, coi chủ nghĩa này thật khó thực hiện ở nước ta. Tờ báo coi những người
cộng sản trong nước chỉ là những thiếu niên trẻ người non dạ, tát nước theo mưa. Với bút danh M.V, Huỳnh Thúc Kháng viết bài “Chủ động cộng sản ở nước ta là ai?” – Tiếng Dân số 236 ra ngày 30.11.1929 – nêu rõ: “Ở nước Nam ta mà có chủ nghĩa cộng sản thì người mình chỉ là hạng nghe theo chứ không có người chủ động mà dầu có đi nữa cũng chỉ là người hiện đương ở ngoại dương kia”. Theo tác giả, chủ động cộng sản là người Nga... Đọc những dòng này. người hời hợt sẽ cho rằng Huỳnh Thúc Kháng đã bài bác, chỉ trích chủ trương của những người cộng sản. Thật ra, đây chính là cách thức để ông gián tiếp biện hộ cho những đảng viên cộng sản trẻ tuổi lỡ rơi vào tay kẻ thù. Sự thanh minh này nhằm làm cho người Pháp “thông cảm”, “tha thứ” cho những kẻ đã “trót lỡ dại” chống lại chính quyền thực dân. ý đồ chính của Tiếng Dân là làm giảm càng nhiều càng tốt sự đổ máu vô ích. Sự thương xót nhiều khi không đúng cách này của tác giả dẫu sao cũng đáng quí khi mà trong xã hội đầy rẫy bọn phản dân hại nước, chỉ biết vun vén lợi ích cá nhân, bất kể số phận đồng loại ra sao.
Tuy nhiên cũng phải công bằng mà xét, Huỳnh Thúc Kháng chưa hẳn là người hoàn toàn không tán thành đường lối của chủ nghĩa cộng sản. Sau cách mạng tháng Tám 1945 ông đã cùgn những người cộng sản hết lòng xây dựng và giữ gìn chính thể Việt Nam dân chủ cộng hoà còn non trẻ. Hơn nữa, nhiều bài viết trên báo Tiếng Dân đã bị kiểm duyệt, cắt bỏ từng phần hoặc toàn bộ, rất khó khôi phục lại. Chúng ta chỉ có thể khẳng định rằng những nội dung bị cắt xén đó chắc chắn đi ngược lại yêu cầu của nhà cầm quyền thực dân, có lợi cho cách mạng.
Xu hướng cải lương xuất hiện ở Việt Nam từ khá sớm với những tên tuổi lớn như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Trần Chánh Chiếu... vậy vì lý do gì mà quần chúng nhân dân thích đọc Tiếng Dân, một tờ báo pha trộn giữa khuynh hướng đại nghị với quan điểm lập hiến? Điều này không khó lý giải.
Thứ nhất, Tiếng Dân là tờ báo đầu tiên đại diện cho người dân xứ Trung
Kỳ, lại chịu sự quản lý của một nhân sĩ có uy tín, nổi tiếng là người có đức có tài, có tâm.
Thứ hai, hầu như số nào Tiếng Dân cũng có bài bàn về chính trị, về các vấn đề đang gây bức xúc trong xã hội, là những nội dung mà báo chí đương thời (trừ dòng báo chí cách mạng, bí mật) đều né tránh.
Thứ ba, mặc dù mang tính cải lương, nhưng Tiếng Dân luôn đứng về phía những người thuộc tầng lớp dưới, đối lập hẳn với hệ thống báo chí của nhà nước như Hoan Châu công báo, Hà Tĩnh tân văn, Trường an cận tín.
Nó cũng khác hẳn với những tờ báo của các đảng phái chính trị cơ hội kiểu như Đảng lập hiến của Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Phan Long đứng trên danh nghĩa đấu tranh đòi quyền tự chủ cho đất nước nhưng thực chất là ngầm bắt tay với thực dân Pháp nhằm bảo vệ quyền lợi cho giới quý tộc bản xứ.
Như trên đã nói, từ những năm 1920 trở về sau, ở Việt Nam xuất hiện nhiều tổ chức, đảng phái chính trị. Tuy nhiên, những đảng phái đấu tranh vì sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc kiểu như Đảng Cộng sản, Việt Nam quốc dân đảng lại không có nhiều. Hầu hết chỉ mang màu sắc yêu nước, giới hạn trong việc đòi cải cách xã hội là chính. Những đảng này khi được chính quyền ve vãn là lập tức quay ra phản bội ngay chính lý tưởng ban đầu của mình. Điều đáng nói là loại đảng phái này lại khá phổ biến, chi phối gần như toàn bộ xã hội, đặc biệt tại các đô thị. Tiếng Dân, tờ báo hợp pháp chịu sự quản lý trực tiếp của chính quyền thực dân, nằm trong vòng vây hãm của thứ luật pháp nô dịch, nên cũng khó mà vẫy vùng được. Chính vì vậy, cũng là điều dễ hiểu khi, suốt 16 năm không ngừng công kích nhà cầm quyền, Tiếng Dân chưa bao giờ đặt ra vấn đề độc lập dân tộc, xoá bỏ chế độ cũ xây dựng chế độ mới bằng các biện pháp cách mạng. Báo mới chỉ hạn chế trong việc phê phán các chính sách thuế khoá, giáo dục, phu phen, ít khi sử đụng chạm tới triều đình phong kiến. Nói cách khác, theo xu thế chung, Tiếng Dân cũng chỉ dừng lại ở mức độ đấu tranh đòi cải cách xã hội. Tiếng Dân từng viết: “Muốn cho tư tưởng phản đối không
xuất hiện ra chỉ có thay đổi chánh thể cho phù hợp với thời thế cùng nguyện vọng của dân là một cách rất ổn thoả và vững bền...”. ở chỗ khác, tờ báo còn tỏ rõ thái độ không muốn người Pháp rút về nước họ: “Hai dân tộc ở chung trên một miếng đất đã hơn nửa thế kỷ nay, cái quan hệ với nhau không phải là tuyệt nhiên không có. Người Pháp vượt mấy lần biển mà sang đây không phải là không có dụng ý, nào quyền lợi, nào lợi ích, trong mấy lâu nay đã gây thành một mối quan hệ không thể nào rời được, mà từ nay về sau, mối quan hệ ấy không dễ một ngày mà mất đi. Vậy thì theo thuyết thế giới giao thông ngày nay, ta không vì lẽ gì mà đuổi người Pháp về...”.
Theo Tiếng Dân mọi xung đột giai cấp trong xã hội đều xuất phát từ mấy lý do: Sự bất bình của người dân trước những chính sách lạc hậu của nhà cầm quyền, vì con người không biết yêu nhau, do cái dốt và cái đói gây nên. Tiếng Dân số 260, 261 có bài “Cuộc trị an trong một nước” đã viết “Bất bình là cái mầm của sự nguy loạn, nên muốn cho trị an tất phải làm cho cái mầm ấy tiêu diệt đã”. Tác giả Nga Sơn vạch rõ nỗi bất bình của dân ta xuất phát từ sự thiên vị trong các chính sách cai trị của người Pháp. Cùng là dân một nước, nhưng người Nam kỳ lại được hưởng nhiều đặc quyền đặc lợi trong khi người dân Bắc và Trung kỳ lại bị rẻ rúng, khinh miệt. Bài báo mách nước, muốn triệt tiêu được mâu thuẫn trong nhân dân, người Pháp nên chú trọng đến việc “tam kỳ hợp nhất”, không có sự phân biệt đối xử. Rõ ràng là Tiếng Dân đã không nắm được bản chất đối kháng trong xã hội ta thời bấy giờ, quan điểm này phần nào giống với thuyết Trực trị của Nguyễn Văn Vĩnh.
Trên đường ra Bắc, nữ phóng viên báo Le Petit là A. Viôlit đã ghé qua toà soạn phỏng vấn chủ nhiệm báo Tiếng Dân. Căn cứ ở phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh những năm 1930 – 1931, Viôlit có hỏi Huỳnh Thúc Kháng: Qua những cuộc biểu tình gần đây, người Việt Nam có lẽ theo xu hướng cộng sản hay sao? Huỳnh Thúc Kháng trả lời: Người Việt Nam chúng tôi phần nhiều chẳng rõ chủ nghĩa cộng sản là gì... Nói cho rõ là cái dốt và cái đó nó phục sau
lưng, cùng đường phải chạy nháo... (Nguyễn Thành, sách đã dẫn, tr.132). Điều này phù hợp với ý nguyện của Huỳnh Thúc Kháng khi đề đạt với Toàn quyền Rôbanh vào ngày 13.12.1930 “Chủ yếu là do đời sống khổ sở mà quần chúng làm biến loạn, muốn trị an thì phải làm cho dân có chút trú trong sự sống do chính phủ ban ơn”. Nói cách khác, nếu người Pháp tiến hành cải cách xã hội , nâng cao dân trí, làm cho đời sống nhân dân ấm no hơn thì sẽ triệt tiêu được đối kháng giữa kẻ đi xâm lược với người bị xâm lược. Rõ ràng là quan điểm sai lầm về chính trị mà Tiếng Dân mắc phải không xuất phát từ đạo đức người cầm bút. Nó liên quan đến những nhận thức không đúng của tờ báo đối với thời cuộc, với sự vận động đi lên của các quy luật xã hội, không nắm bắt được nhu cầu, tâm lý của quần chúng nhân dân. Dường như Tiếng Dân mới chỉ chú trọng đến việc giải quyết những nhu cầu trước mắt, chưa quan tâm đúng mức đến lợi ích lâu dài của dân tộc.
Ngoài những nội dung chính trị chính yếu trên, Tiếng Dân còn đề cập khá phong phú đời sống xã hội, từ đời sống thiếu thốn, đày ải của người tù chính trị tại Sơn La, Côn Đảo, đến vấn đề tự do ngôn luận, từ sự hình thành chủ nghĩa phát xít trên thế giới đến quyền sống, quyền bình đẳng của người phụ nữ Việt Nam. Tờ báo còn có nhiều bài nói lên chính kiến của mình về lịch sử, văn hoá, thơ ca. Tiếng Dân còn là diễn đàn tranh luận về nhiều vấn đề nổi cộm, gai góc trong xã hội trên các lĩnh vực triết học, văn học... Các mục Văn vần, Tự do diễn đàn rất được người đọc hoan nghênh. Qua chúng, tác giả như muốn gửi gắm tâm tình, quan niệm sống của mình đối với thời cuộc tới các tầng lớp nhân dân. Đây chính là nơi nhen nhúm ngọn lửa yêu nước trong mỗi con người. Qua chúng, người đọc như được giải toả bao nhiêu ẩn ức chất chứa bấy lâu và cũng từ đây họ tìm lại được sự tự tin trong nhốn nháo cuộc đời:

“Bút tươi, mực đậm chữ chưa mòn
Chuyện lớn phô bày đến chuyện con
Âu, á un chung ngòi bút sắc
Cuộc năm châu mới xôn xao sóng
Nước mấy triều xưa quan quẽ hồn
Thương nhỉ ghé chăng đành mặc kệ
Miễn sao nghĩa vụ được vun tròn
(Tiếng Dân 1934).

Có thể nói khi làm chủ nhiệm báo Tiếng Dân, Huỳnh Thúc Kháng là hiện thân của một chiến sĩ xã hội, là một nhà yêu nước. Tư tưởng cách mạng chỉ thực sự đến với Huỳnh Thúc Kháng sau cuộc gặp gỡ giữa ông và Hồ Chủ Tịch. Giữa ông và những người cộng sản đã tìm được điểm tương đồng, đó là chủ trương đoàn kết toàn dân, đấu tranh vì dân chủ xã hội, vì hạnh phúc của quảng đại quần chúng nhân dân. Không quản tuổi già sức yếu, Huỳnh Thúc Kháng đã cùng Chính phủ nếm mật nằm gai tiến hành cuộc trường kỳ kháng chiến. Ông là người sáng lập và làm Chủ tịch Hội Liên – Việt. Lớp đào tạo báo chí đầu tiên ở nước ta được mang tên ông. Ông cảm kích trước tấm lòng vì dân vì nớc của bậc làm đàn anh, sau ngày Huỳnh Thúc Kháng mất (21.4.1947) Hồ Chủ tịch đã có thư gửi đồng bào cả nước, trong đó đoạn: “Cụ Huỳnh Thúc Kháng là người học hành rất rộng, chí khí rất bền, đạo đức rất cao. Vì lòng yêu nước mà trước đây cụ bị bọn thực dân làm tội đày đi Côn Đảo mười mấy năm trường gian nan cực khổ. Nhưng lòng son dạ sắt, yêu nước thương nòi của cụ chẳng những không sờn lại thêm kiên quyết.
Cụ Huỳnh là người giàu sang không làm siêu lòng, nghèo khổ không làm nản chí, uy vũ không làm sờn gan.
Cả đời cụ Huỳnh không cần danh vị, không cần lợi lộc, không thèm giàu sang. Cả đời cụ Huỳnh chỉ phấn đấu cho dân được tự do, nước được độc lập...”.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét