Thứ Tư, 15 tháng 4, 2009

Cũng bình thường thôi!

- Bác Viễn đi đâu về mà mồ hôi mồ kê nhễ nhại thế? Giày dép đâu mà chân có chân không thế kia?
- à tôi vừa đi xem lễ hội hoa anh đào về. Gớm không hiểu người ở đâu ra mà lắm thế. Chen mãi mới vào ngó được một lát, khi ra đến ngoài mới biết tụt mất chiếc giày chân phải. Bà nhà tôi mà biết chắc lại cằn nhằn suốt đêm, thật khổ cái thân tôi quá.
- Nghe báo chí thông tin lễ hội hoành tráng lắm, hoa anh đào có đẹp không bác?
- Có 6 khóm hoa cả thảy chứ nhiều nhặn gì, trong số đó, có đến một phần ba úa héo rồi. Hoa anh đào trông cũng đẹp, từa tựa như đào rừng của ta thôi.
- Tôi đọc sách Tây du kí tả quả đào to như quả bưởi, ăn vào là trường sinh bất lão. Tôn Ngộ Không nhờ có quả này mà thần thông biến hoá như vậy, thế mấy cây đào mang sang triển lãm lần này quả to bằng chừng nào?
- Quả ở đâu ra, năm ngoái chỉ có hoa thôi mà người ta còn vặt trụi thùi lụi, giờ có quả nữa thì…
- Vậy chắc hương thơm của nó quí lắm, có thể chữa được bách bệnh, mùi của nó có lan toả được khắp Hà Nội không bác?
- Tôi gí mũi sát vào một khóm nở hoa nhiều nhất gần nửa giờ đồng hồ mà chỉ ngửi thấy mùi hăng hắc, nồng nồng như rau ngổ thôi
- Hay là mắt mũi bác có vấn đề? Cứ theo lời kể của bác thì hoa anh đào cũng bình thường thôi, ở Nhật Bản nó được trồng trên cả vỉa hè, vậy mà sao dân ta đi xem đông thế? Hay là người ta treo trên mỗi cành hoa một chiếc điện thoại di động đời mới, một máy nghe nhạc để thưởng cho du khách nhỉ?
- Đừng có mà nằm mơ. Mà kể cũng lạ, hoa anh đào đã trồng thử ở Hà Nội mấy năm nay, mỗi khi hoa nở có mấy ai đến xem đâu. Tôi nghĩ, để xảy ra tình trạng mất trật tự trong các lễ hội hoa anh đào chủ yếu là do tâm lí “Bầy đàn” của người dân, là lỗi của cánh truyền thông, đã thổi phồng thái quá cho người ngoài, trong khi bao cái hay cái đẹp của ta thì xếp xó. Chỉ khổ cho cánh an ninh, phải huy động tới 500 người để bảo vệ cho mấy cành hoa
- Kinh thế kia à? Mới có mấy cành hoa mà đã thế, không hiểu khi họ mang sang “đặc sản” thật như đấu võ Su mô, trà đạo, tình hình còn loạn đến đâu. Lạy trời, họ đừng mang thứ gì quí hiếm sang ta triển lãm nữa, hãi lắm!

CẬN

Thứ Tư, 8 tháng 4, 2009

Luật chống mua dâm

Không hiểu mấy cô gái ăn mặc mát mẻ đứng trước cửa mấy quán cà phê kia vẫy vẫy ai thế nhỉ? Bà Phó Đoan bâng quơ hỏi Xuân Tóc đỏ.
- Họ mời chào khách đấy.
- Uống có cốc cà phê mấy ngàn bạc mà được một em trông “ngon “ thế săn đón kể cũng thích nhỉ. Chẳng bù cho chị, chẳng được ai vẫy bao giờ
-Ai bảo chị là vào đó để uống cà phê? Họ đang rủ rê khách mua dâm đấy.
- Thật hả cậu? Công an đi đâu hết mà để họ hoạt động tự do thế?
- Công an thì làm được gì. Bắt, xử phạt, đưa về địa phương, chỉ vài bữa là họ lại lên đây tiếp tục hành nghề, ai làm gì được họ.
- Thì phải bỏ tù, phạt thật nặng vào mới có tính răn đe chứ.
- Chính quyền nào cho phép làm thế. Hầu hết gái mại dâm đều có xuất xứ từ nông thôn. Nhà có vài sào ruộng, làm sao đủ ăn trong cái thời buổi vật giá cái gì cũng đắt đỏ này. Trong tay lại chẳng có bằng cấp, nghề ngỗng gì, họ chỉ còn biêt trông vào “vốn tự có” để sông thôi.
-Sao Nhà nước không hướng nghiệp hay tổ chức dạy nghề cho họ nhỉ?
-Cũng có đấy nhưng không tác dụng. Học nghề xong, đi làm tháng mấy trăm bạc, chẳng đủ mua mấy hộp sữa cho con, thì thà làm mấy “cuốc tàu nhanh” còn hơn, vừa “sướng” thân, túi lại rủng rỉnh.
- Thế đành bó tay à?
- Suy cho cùng, gái mại dâm cũng là đối tượng bị bóc lột. Cái họ bán, bản thân nó cũng là một thứ hàng hoá. Không ai trên đời này lại đi xử phạt hàng hoá bao giờ- Bác Cả chân quê thủng thẳng triết lý, trán nhăn lại đầy vẻ ưu tư.
- Vâỵ theo bác, chúng ta phải làm gì?
- Đơn giản thôi. Xử lý thật nghiêm bên “cầu” là ổn. Như bên Thuỵ Điển ấy, họ có cả bộ luật chống mua dâm. Ai bị bắt đang hành lạc với gái bán dâm, ngoài phạt tiền, kẻ đó còn phải vào tù 6 tháng. ảnh của kẻ mua dâm được dán khắp nơi công cộng, gửi giấy về cơ quan, gia đình…
- Sao bác và cậu Xuân có vẻ rành cái “món” mua bán dâm thế nhỉ?
- à…ờ…Thì thỉnh thoảng chúng tớ cũng phải đi “xoá đói giảm nghèo” cho chị em nên mới biêt rõ thế chứ.

Người Tràng An

Phải hỏi Bộ Học

-Này chú! Lại đây chị bảo- Nhìn thấy Xuân tóc đỏ, Bà Phó Đoan miệng gọi tay đặt phịch chồng sách giáo khoa xuống đất, thở hổn hển, mặt đỏ gay
- Chị mua sách cho thằng Chã đấy à?
- ừ! Suốt từ sáng đến giờ chị phảI xếp hàng mãi mới mua được chừng này đấy.
- Thằng Chã nhà chị mới học lớp 7, chị mua sách lớp 11- 12 làm gì?
-Thời buổi giá sách tăng ầm ầm thế này, chị phảI tích trữ chứ. Chú cũng nên mua một ít phòng thân đi
-Nhưng em đã có vợ con gì đâu.
- Thì cứ mua phòng khi có con, nếu không mấy năm nữa bán đi cũng lãi được khối. Tình hình này giá sách giáo khoa còn tăng nữa.
- Nhưng em nghe nói Nhà nước đã ra lệnh cấm không cho mặt hàng nào tăng giá trước tháng 6 cơ mà.
- Đầu óc chú chắc chắn có vấn đề. Bộ Học xin Nhà nước cho tăng giá sách, đã nhận được sự chuẩn y đâu mà tại các hiệu sách, giá đã đồng loạt tăng cả rồi. Bộ này cứ tiền trảm hậu tấu đấy, Nhà nước làm gì được.
- Chị cho em đi cùng nhé, để em chạy ù ra ngân hàng rút tiền đầu tư hết vào sách, phen này…
- Cô chú định đi đâu mà hớt hải thế- Bác Cả thình lình hiện ra ở góc phố hỏi
- Thế bác chưa biết gì sao? Giá sách bắt đầu tăng rồi. Cả bác nữa, cũng mau về lấy tiền ra mà “ôm” vào đi, kẻo cám cũng chẳng còn mà ăn đâu.
-Cô chú có biết, việc làm của cô chú có tính chất tiếp tay cho đầu cơ, gây lũng đoạn thị trường không? Theo luật, tội này là nặng lắm đấy.
- Bác cứ doạ bọn em, người ta đầu cơ vàng, chứng khoán, gạo đầy ra đấy mà đã thấy ai bị truy tố đâu.
- Cô chú phảI nhớ, chống đầu cơ, giảm lạm phát, bình ổn chính trị xã hội là việc của toàn dân, một mình Nhà nước không thể làm được
- Nhưng theo bọn em biết, chỉ có ngành kinh doanh nào bị lỗ thì họ mới đòi tăng giá. Đằng này, Bộ Học kinh doanh sách giáo khoa lãi mỗi năm hàng chục tỷ đồng mà cũng đòi tăng giá là sao.
-Cái đó phải hỏi Bộ học. Cái đám độc quyền là hay vòi vĩnh thế đấy.
-Hơn nữa chất lượng sách giáo khoa lâu nay bị dư luận ỳ xèo là có nhiều vấn đề. Sản phẩm chất lượng kém mà cũng đòi tăng giá là sao?
- Cái này cũng phảI hỏi Bộ Học.

Người Tràng An

Mơ mộng hão huyền

- Có lẽ đợt này tôi với bác bỏ tập dưỡng sinh chuyển sang chơi bóng đá thôi, biết đâu một ngày đẹp trời nào đó, chúng ta được nhận vào đội tuyển quốc gia cũng nên- Vừa thấy ông Viễn bước từ siêu thị ra, ông Cận đã sốt sắng đề nghị.
- Sao hôm nay bác có suy nghĩ kì quặc thế? Tôi bây giờ ngồi xem người ta đá đã thở chẳng ra hơi rồi, giờ mà xông vào tranh cướp bóng có mà long hết bu-gi, ốc- vít ra à.
- Tôi cũng vậy đấy, chạy vài chục mét đã thấy nghĩa trang Văn Điển chập chờn trước mắt, hãi lắm. Nhưng mà thấy số tiền mỗi cầu thủ được chia sau khi vô địch AFF cúp vừa rồi, tôi thấy ham quá.
- Chạy lòng vòng trên sân vài buổi, mỗi người được nhận gần tỷ đồng ai chẳng thích, nhưng có phải ai cũng làm được điều đó đâu. Các cầu thủ của chúng ta đều là những kì tài, tinh hoa của dân tộc cả đấy.
- Bác cứ hay nói quá . Khi họ thua, bác phê phán, chửi bới hết lời, vậy mà vừa mới giành được một cái giải “còi xương” đã bốc lên tận mây xanh. Chẳng bù cho bóng đá nữ, đánh đông dẹp bắc, đi tới đâu, các đối thủ trong khu vực phải dạt ra đến đấy, vậy mà im hơi lặng tiếng quá. Nghe nói, có tuyển thủ nữ, sau mỗi giải đấu, về địa phương phải đi bán thịt lợn rong để sinh nhai đấy. Nghĩ mà thấy tủi cho họ quá
- Bác cứ hay bì phấn với vôi. Dù có hay, có tài đến mấy thì đàn bà vẫn là đàn bà…
- Đàn bà thì làm sao? Bác phong kiến quá. Ai cũng vậy thôi, mang lại vinh quang cho tổ quốc đều phải được đãi ngộ, tôn vinh như nhau, thế mới gọi là công bằng, dân chủ, văn minh chứ.
- Vậy tôi hỏi bác, bác đã bao giờ chịu bỏ tiền ra mua vé vào sân coi bóng đá nữ chưa? Trong khi bóng đá nam, giá vé có đắt đến mấy, có thấy bác vắng mặt trận nào đâu
- ờ…thì… bác Viễn này, liệu sau cái cú vô địch AFF vừa rồi bóng đá Việt Nam có cất cánh bay lượn trên bầu trời Wordl cúp không nhỉ?
- Bác lại viển vông rồi. Thể lực, vóc dáng của người Việt mình còn lâu mới phù hợp với những giải đỉnh cao. Có ước mơ là tốt nhưng chớ ảo tưởng. Tôi chỉ mong các cầu thủ của chúng ta sớm hãm bớt sự hân hoan, trở lại với mặt đất, chuẩn bị trí, lực để bảo vệ lấy cái cúp vừa giành được là tốt rồi.
- Bác ác vừa thôi, vừa mơ mộng hão huyền một tí đã bị dội cả thùng nước lạnh vào đầu, thế mà cũng gọi là bạn là bè cơ đấy

CẬN

Chuyện nhỏ

Này, tối qua cậu có coi chương trình thời sự trênTV không? Thật kinh khủng quá- Vừa gặp Xuân Tóc đỏ bà Phó Đoan đã vội hỏi
- Có chuyện động trời gì vậy?
-Chương trình đưa ra con số điều tra cho thấy, có đến hơn 80% dân số nước mình không được sử dụng nước sạch và nhà “Tiêu” đạt tiêu chuẩn cậu ạ.
- Ôi dào, tưởng gì! Cái hồi chiến tranh em uống nước ruộng suốt mà có làm sao đâu. Còn nhà “Tiêu” cả ngày mới chui vào một lần, chỉ vài phút thì cần gì thơm tho sạch sẽ.
-Chú có biết bao nhiêu thứ dịch bệnh cũng từ đó mà ra không? Có lẽ ở bẩn từ nhỏ nên đầu óc chú nó mới tối tăm thế.
-Thế theo chị thì phải làm thế nào?
-Trước hết là phải vận động, tuyên truyền cho người dân ăn chín uống sôi, phải xây dựng nhà “Tiêu” đạt chuẩn.
-Bà con nông dân mình ăn còn chẳng đủ, lấy tiền đâu ra mà xây?
-Thì Nhà nước phải hỗ trợ chứ
-Chính phủ còn đang sốt vó với bao chuyện tày đình, nào kiềm chế lạm phát, nào vực dậy thị trường chứng khoán, nào ghìm giá hàng hoá tăng cao, ai hơi sức đâu mà lo chuyện chuồng “Tiêu” cho nhà chị.
-Thế chẳng lẽ bó tay à?
Thấy bà Phó Đoan và Xuân Tóc đỏ bối rối nhìn nhau, bác Cả chân quê giờ mới đủng đỉnh lên tiếng:- Không cần Nhà nước phải lo, cũng chẳng cần người dân phải bỏ tiền ra mà vẫn giải quyết được vấn đề đấy.
-Bác có cao kiến gì vậy?- Xuân Tóc đỏ hấp tấp hỏi.
-Đơn giản thôi. Mấy bữa nay, ở một tỉnh miền Trung có cuộc thi bắn pháo hoa quốc tế, nghe nói chi phí lên tới hàng chục tỷ đồng. Cũng tại khu vực này trước đó ít lâu người ta xây dựng một nhà máy đường hết 200 tỷ đồng, giờ bán thanh lý được có 45 tỷ… Tất cả những vụ lãng phí này nếu được khắc phục sẽ thừa sức xây dựng nhà máy xử lý nước sạch, làm chuồng tiêu đạt chuẩn cho bà con.
- Ôi dào! Nói như thế ai chẳng nói được- Cả Xuân Tóc đỏ và bà Phó Đoan cùng trề môi, đồng thanh đáp lại.

Người Tràng An

Hà Huy Tập - Người suốt đời chỉ đi trên một con đường

“Nếu tôi phải bị chết thì ở nhà không nên thờ cúng, điếu phúng, không cần tìm người lập tự. Gia đình và bạn hữu chớ xem tôi như là người đã chết mà buồn, trái lại nên xem tôi như người còn sống nhưng đi vắng vô hạn mà thôi”. Trên đây là những lời nhắn nhủ cuối cùng gửi người thân và bạn bè của đồng chí Tổng Bí thư Hà Huy Tập trước khi ông lên đoạn đầu đài.

Đôi nét về một trong những vị Tổng Bí thư trẻ nhất Việt Nam
Dòng họ Hà xuất hiện ở Hà Tĩnh đã hơn 5 thế kỉ nay. Do những biến động của thời cuộc, dòng họ này tản mát khắp vùng Thanh - Nghệ - Tĩnh. Hà Huy Tập là cháu đời thứ 13 của nhánh Hà Huy ở thôn Kim Nặc, tổng Thổ Ngoạ (nay là xã Cẩm Hưng - Cẩm Xuyên - Hà Tĩnh). Thân phụ của Hà Huy Tập là Hà Huy Tương (đỗ Cống sinh nhưng không ra làm quan, ở nhà dạy học, bốc thuốc), còn thân mẫu là bà Nguyễn Thị Lộc. Hà Huy Tập là con thứ 3 trong gia đình có 4 anh chị em.
Theo gia phả thì gia đình Hà Huy Tập thuộc hạng trung nông, có truyền thống Nho học. Với trí thông minh vốn có, ông được cha mẹ cho ăn học từ nhỏ. Khi Hà Huy Tập lên 10 tuổi (1916) thì người cha qua đời, gia cảnh lâm vào hoàn cảnh khó khăn, có lúc phải bán ruộng đi để ăn. Đỗ vào trường tiểu học Kiêm bị Pháp -Việt, Hà Huy Tập một thân một mình lên thị xã Hà Tĩnh theo học. Để có tiền ăn học, ông phải làm thêm nghề gia sư. Năm 1919, do thành tích học tập xuất sắc, Hà Huy Tập được chính phủ cấp học bổng 8 đồng mỗi tháng, ông liền xin chuyển sang học tại trường Quốc học Huế. Năm 1923, Hà Huy Tập tốt nghiệp bậc Thành chung hạng ưu. Không có điều kiện học tiếp, ông bắt đầu lập thân bằng nghề dạy học. Hà Huy Tập được điều động về dạy tại trường Pháp - Việt Nha Trang (Khánh Hoà). Trong mấy năm làm vệc tại đây, ông đã có dịp tiếp xúc với sách báo tiến bộ như Le Paria (Người cùng khổ), L’Humanité (Nhân đạo), được tiếp kiến những nhà yêu nước nổi tiếng như Ngô Đức Kế, Lê Văn Huân, những người sáng lập Hội phục Việt. Năm 1925, Hà Huy Tập quyết định gia nhập hội này.
Vốn được giáo dục tinh thần yêu nước từ nhỏ, Hà Huy Tập luôn dạy học trò của mình đạo lí làm người, kế thừa và phát huy những giá trị do tổ tiên để lại. Mỗi khi có điều kiện, ông lại kể cho học trò nghe về những tấm gương anh hùng bất khuất trong lịch sử, ươm mầm trong đầu óc các em tình cảm yêu nước thương nòi, yêu độc lập tự do, căm thù kẻ ngoại xâm. Vì những việc làm này mà Hà Huy Tập nhiều lần bị nhà cầm quyền nhắc nhở, theo dõi, tìm cách sa thải. Giữa năm 1925, Hà Huy Tập cùng một số đồng nghiệp và học trò kí vào bản kiến nghị đòi nhà cầm quyền thực dân thả chí sĩ Phan Bội Châu. Rồi tháng 3.1926, ông lại cùng nhân dân địa phương tổ chức lễ truy điệu Phan Chu Trinh. Để xây dựng cơ sở cho Hội Phục Việt ngày càng vững mạnh, Hà Huy Tập và các đồng chí tổ chức nhiều lớp học buổi tối, trước là để dạy chữ cho công nhân, sau là để giác ngộ tinh thần yêu nước cho các học viên. Để cách li Hà Huy Tập khỏi phong trào yêu nước địa phương, giữa năm 1926, nhà cầm quyền đã trục xuất ông ra khỏi địa phận Nha Trang. Về Vinh ( Nghệ An ), ông xin được một chân dạy học tại trường Cao Xuân Dục. Tại đây, ông tiếp tục mở rộng các cơ sở cho hội Phục Việt, tìm cách đưa thanh niên sang Quảng Châu dự những lớp huấn luyện do Nguyễn Ái Quốc tổ chức. Lần này, hoạt động của Hà Huy Tập cũng không thoát khỏi ánh mắt cú vọ của nhà cầm quyền. Để cô lập ông, người Pháp điều ông về làm hiệu trưởng trường Phủ Bon (huyện Quỳ Châu). Hà Huy Tập từ chối liền bị công xứ Vinh cách chức giáo viên. Trước tình thế này, nếu tiếp tục để Hà Huy Tập ở lại Vinh sẽ không có lợi, lãnh đạo Hội Phục Việt quyết định cử ông vào Sài Gòn hoạt động bí mật.
Vào đến Sài Gòn, Hà Huy Tập xin dạy học tại An Nam học đường - Gia Định. Đầu năm 1928, Hà Huy Tập kết hôn với bà Nguyễn Thị Giáo. Vì liên quan đến hàng loạt cuộc bãi công, bãi khoá của học sinh, thợ thuyền, tháng 6.1928, Hà Huy Tập lại mất việc làm. Ông vào làm công cho một hiệu buôn, sau đó xuống Bà Rịa làm việc tại một đồn điền. Tại đây, ông gây dựng được một chi bộ của Tân Việt Đảng (Phục Việt đổi tên) do ông trực tiếp làm bí thư. Chi bộ hoạt động rất mạnh, đã tổ chức được nhiều cuộc bãi công đòi tăng lương, giảm giờ làm. Do một lần tình cờ kẻ thù khám xét trụ sở của Tân Việt Đảng phát hiện một số tài liệu liên quan đến Hà Huy Tập nên Tổng bộ Tân Việt phải đưa ông sang Quảng Châu lánh mặt. Tình hình chính trị Quảng Châu lúc này cũng không được thuận lợi, nên Hà Huy Tập tiếp tục đi Thượng Hải, sau đó tới Hồng Kông. Tháng 5.1929, Quốc tế Cộng sản đã tạo điều kiện cho Hà Huy Tập sang Liên Xô học tại trường Đại học Phương Đông. Đây là bước ngoặt có tính quyết định đến con đường chính trị của ông sau này.
Nhờ những cố gắng trong tu dưỡng đạo đức, nỗ lực trong học tập nên chỉ sau một thời gian ngắn học tập tại trường Đại học Phương Đông, ngày 23.10.1930 Hà Huy Tập được kết nạp vào Đảng Cộng sản Liên Xô. Sau hơn 3 năm miệt mài học tập, đầu năm 1932, Hà Huy Tập được Quốc tế Cộng sản cử về nước hoạt động. Do trục trặc trong khâu giấy tờ tuỳ thân, ông bị chính phủ Pháp trục xuất sang Bỉ, sau đó phải quay trở lại Liên Xô. Trong thời gian chờ đợi ở Matxcơva, Hà Huy Tập có điều kiện tìm hiểu kĩ hơn những tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, nghiên cứu các điểm mạnh và chỉ ra các điểm yếu của các phong trào yêu nước Việt Nam. Đây là thời kì Hà Huy Tập viết khá nhiều tác phẩm đăng báo, in sách mang tính chất lí luận, chính trị có giá trị cao. Tháng 4.1933, một lần nữa Hà Huy Tập được Quốc tế Cộng sản bố trí đưa về nước qua đường Trung Quốc. Tại Quảng Châu, Hà Huy Tập đã gặp Lê Hồng Phong. Vì cơ quan trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương đang gặp nhiều khó khăn ở trong nước nên hai ông quyết định thành lập Ban chỉ huy ở ngoài. Sau khoảng một năm chuẩn bị, tháng 6.1934, Hội nghị Ban chỉ huy ở ngoài đã diễn ra tại Ma Cao. Hội nghị đã thông qua nhiều văn bản quan trọng. Đồng chí Hà Huy Tập được đề cử vào Ban chỉ huy ở ngoài với vai trò uỷ viên, phụ trách tuyên truyền, cổ động, quản lí tạp chí Bônsơvich. Vào thời điểm này, Ban chỉ huy ở ngoài có chức năng như Ban chấp hành Trung ương Đảng, chỉ đạo mọi hoạt động của các cấp uỷ Đảng ở trong nước. Để phù hợp với tình hình mới, kịp thời vạch ra sách lược đấu tranh, củng cố và phát triển Đảng, Ban chỉ huy ở ngoài quyết định gấp rút chuẩn bị tiến hành Đại hội Đảng lần thứ nhất. Và ngày 27.3.1935, Đại hội đã khai mạc tại Ma Cao. Vì thời gian này đồng chí Lê Hồng Phong thay mặt Đảng Cộng sản Đông Dương dự Đại hội VII Quốc tế Cộng sản, nên đồng chí Hà Huy Tập đứng ra chủ trì Đại hội Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ nhất. Tại Đại hội, Hà Huy Tập đã đọc bản báo cáo chính trị quan trọng. Bản báo cáo này được nhất trí thông qua và trở thành nghị quyết chính của Đại hội. Các đại biểu đã bỏ phiếu bầu đồng chí Lê Hồng Phong làm Tổng thư kí (Tổng Bí thư). Hà Huy Tập giữ chức thư kí Ban chỉ huy ở ngoài.
Giữa năm 1936, Hà Huy Tập bí mật về nước, đặt cơ quan ở làng Tân Thới Nhứt, xã Bà Điểm, huyện Hóc Môn, tỉnh Gia Định. Đây là thời kì ở Pháp cũng như tại Việt Nam đang có những biến động chính trị hết sức sâu sắc, tương đối thuận lợi cho các tổ chức cách mạng hoạt động. Tháng 8.1936, Hà Huy Tập công bố bức thư ngỏ kêu gọi các đảng phái chính trị tiến bộ sát cánh bên nhau tổ chức Đông Dương đại hội (phong trào do chí sĩ Nguyễn An Ninh khởi xướng). Mặc dù Đông Dương đại hội không tiến hành được, nhưng Hà Huy Tập đã góp một tiếng nói quan trọng tạo nên phong trào quần chúng sôi nổi trong cả nước.
Thực dân Pháp cũng bắt đầu đánh hơi được Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương đã có mặt ở trong nước, đứng sau chỉ đạo cách mạng Việt Nam. Chúng ráo riết truy lùng những người đứng đầu, cấm mọi hoạt động có tính chất phong trào. Để ổn định tổ chức, tháng 7.1936, tại Hội nghị cán bộ, Hà Huy Tập được bầu giữ chức Tổng Thư kí (Tổng Bí thư) khi đồng chí vừa tròn 30 tuổi. Nhờ những hoạt động hết sức sáng tạo, năng nổ của Ban chấp hành Trung ương và đặc biệt là của đồng chí Hà Huy Tập mà các tổ chức Đảng trong cả nước phát triển mạnh mẽ. Tính tới tháng 9.1937, tại các chi bộ trong và ngoài nước đã kết nạp được 925 đảng viên, đã tổ chức in ấn và phát hành được 21 tờ báo cả công khai và bí mật. Vì một số thiếu sót trong chủ trương nên tại Hội nghị Trung ương tháng 3.1938, Hà Huy Tập không được đề cử làm Tổng Thư kí nữa, thay thế là đồng chí Nguyễn Văn Cừ. Tuy nhiên, Hà Huy Tập vẫn có chân trong Ban Thư kí và là Uỷ viên Ban Thường vụ Trung ương.
Từ giữa năm 1938 tình hình chính trị thế giới và nước Pháp có những diễn biến hết sức phức tạp. Chủ nghĩa phát xít ngày càng chiếm ưu thế. Mặt trận nhân dân Pháp đang từng bước tan rã. Phái hữu thắng thế tìm cách cướp chính quyền. Ngày 1.5.1938, trong một chuyến công tác, Hà Huy Tập không may rơi vào tay giặc. Lấy cớ Hà Huy Tập sử dụng thẻ thuế thân của người khác, nhà cầm quyền thực dân xử ông 8 tháng tù, 5 năm cấm lưu trú ở Nam kì. Tháng 8.1939, Hà Huy Tập được thả. Ông về sống tại quê nhà.
Chiến tranh thế giới lần thứ II nổ ra, người Pháp lo ngại những nhà cách mạng Việt Nam có thể kích động dân chúng làm loạn nên đã ra lệnh bắt bớ, giam cầm, giết hại hàng loạt đảng viên Cộng sản, trong số đó có cả những yếu nhân như Nguyễn Văn Cừ, Lê Hồng Phong, Võ Văn Tần, Nguyễn Thị Minh Khai… Ngày 3.3.1940, Hà Huy Tập bị bắt trở lại, kẻ thù giam ông tại khám Lớn (Sài Gòn). Ngày 3.9.1940, toà Tiểu hình Sài Gòn đã xử Lê Hồng Phong và Hà Huy Tập mỗi người 5 năm tù, 10 năm quản thúc. Vài tháng sau xảy ra cuộc khởi nghĩa Nam kì, kẻ thù đàn áp dã man những nhà cách mạng Việt Nam. Để ngăn chặn hậu hoạ, ngày 25.3.1941, toà án quân sự Sài Gòn mở phiên đại hình kết án tử hình hàng loạt cán bộ cốt cán của Đảng, trong đó có Hà Huy Tập. Ngày 28.8.1941, Hà Huy Tập cùng nhiều đồng chí bị đưa ra pháp trường ở ngã tư Giếng Nước - Hóc Môn - Gia Định (nay là Trung tâm Y tế thành phố Hồ Chí Minh) hành hình.

Người chỉ huy tài ba trên mặt trận báo chí - lí luận
Hà Huy Tập là nhà hoạt động chính trị chuyên nghiệp. Cũng như các nhà cách mạng tiền bối, ngay từ khi còn rất trẻ, ông đã rèn luyện cho mình khả năng viết sách, viết báo hết sức linh hoạt, có tính lí luận chặt chẽ. Trong gần 20 năm hoạt động cách mạng, Hà Huy Tâp đã viết được 5 cuốn sách và hàng trăm bài báo. Tiếc là, cho đến nay, số lượng bài báo của ông chúng ta tìm được không nhiều. Thời kì Pháp chiếm đóng, không chỉ riêng ông, tất cả các nhà cách mạng Việt Nam, khi viết bài đăng báo, họ ít khi kí tên, nếu có cũng chỉ dùng bút danh. Thực tế này đã cản trở rất nhiều khi chúng ta muốn tìm hiểu, nghiên cứu về họ.
Cho đến nay, chúng ta chưa thể xác định được những bài viết đầu tiên trong sự nghiệp chính trị cũng như báo chí của Hà Huy Tập. Trong tiểu sử tự thuật của ông cũng không thấy đề cập đến khía cạnh này. Việc sử dụng bút danh của Hà Huy Tập cũng rơi vào hoàn cảnh tương tự. Căn cứ từ nhiều nguồn khác nhau, chúng ta chỉ có thể tạm cho rằng, một trong những bài viết sớm nhất của Hà Huy Tập xuất hiện trên tạp chí Cahiers du Bolchévisme - Cơ quan lí luận của Đảng Cộng sản Pháp. Như trên đã nói, từ tháng 7.1929 đến tháng 4.1932, nhờ sự giới thiệu của Quốc tế Cộng sản, Hà Huy Tập được tiếp nhận vào học tại trường Đại học Phương Đông (Liên Xô). Theo qui định của trường này thì tất cả học viên, ngoài việc nghiên cứu sâu sắc các tác phẩm kinh điển của Mác-Lênin, còn phải thường xuyên viết bài cho các báo, tạp chí của những tổ chức đảng nằm trong hệ thống Quốc tế Cộng sản. Một trong những bút danh đầu tiên Hà Huy Tập sử dụng vào thời kì này là Hồng Thế Công. Vào tháng 11.1931, nhân kỉ niệm 2 năm thành lập Đảng, trên tạp chí Cahiers du Bolchévisme, Hà Huy Tập viết bài Hoạt động của Đảng Cộng sản Đông Dương, phân tích vai trò của Đảng đối với cách mạng Việt Nam. Bài báo đã tổng kết một cách khái quát tiến trình hoạt động, chỉ ra những thành công cũng như mặt tồn tại cần khắc phục của Đảng ta. Phần cuối bài ông nhấn mạnh: “Mặc dù còn trẻ, Đảng Cộng sản Đông Dương đã tỏ rõ một sự vững vàng về hệ tư tưởng vô sản, một tính chiến đấu mẫu mực, một nghị lực hành động, một chủ nghĩa anh hùng đáng khen giữa cuộc đàn áp đẫm máu của đế quốc Pháp…”. Và trong bối cảnh đầu những năm 1930, khi các phong trào cách mạng Việt Nam đang bị đàn áp khốc liệt, Hà Huy Tập đã bộc lộ rõ tinh thần lạc quan của người chiến sĩ cộng sản: “Đảng Cộng sản Đông Dương sẽ có thể chiến thắng không khó khăn gì mọi khuynh hướng cơ hội chủ nghĩa xuất hiện và sẽ còn xuất hiện nữa”.
Trước sự thoái trào tạm thời của cách mạng Việt Nam, nhiều phần tử cơ hội đã tìm cách loại bỏ vai trò của Đảng Cộng sản Đông Dương. Chúng cũng lợi dụng diễn đàn báo chí để xuyên tạc, bôi nhọ đường lối đấu tranh của Đảng. Nhằm đập tan luận điệu này, tháng 2.1932, Hà Huy Tập đã có thư Gửi ban biên tập tạp chí Bolchévisme. Ông nhấn mạnh vai trò không thể đảo ngược của Đảng Cộng sản đối với cách mạng Việt Nam. Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời là phù hợp với tất yếu khách quan, đáp ứng kịp thời đòi hỏi của xã hội. Đồng thời ông cũng khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân, phê phán tư tưởng bi quan chủ nghĩa. Hà Huy Tập đã vạch ra những bước đi chiến lược cho Đảng Cộng sản Đông Dương trong thời gian trước mắt và lâu dài. Ông yêu cầu phải nhanh chóng củng cố và xây dựng các cơ sở Đảng một cách có hệ thống, cương quyết loại bỏ những phần tử cơ hội trong Đảng, đặt mục tiêu chống chủ nghĩa đế quốc lên hàng đầu. Ông nhấn mạnh: “Nhiệm vụ của chúng tôi nặng nề và khó khăn, nhưng chúng tôi sẽ biết cách vượt qua tất cả những trở ngại và những khó khăn sẽ xuất hiện trước mắt chúng tôi. Chúng tôi sẽ luôn tiến bước với niềm phấn khởi và nghị lực nhiều hơn nữa. Thắng lợi của cách mạng Đông Dương sẽ ở trong tay chúng tôi, chúng tôi chỉ việc tiến tới đó bằng tranh đấu”…
Đầu những năm 30 của thế kỉ trước, ở Việt Nam xảy ra nhiều biến động chính trị lớn. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Đông Dương đã gây mối lo ngại lớn cho nhà cầm quyền thực dân. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái tuy thất bại nhưng đã làm rung chuyển nước Pháp. Phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh đã làm thức tỉnh tinh thần đấu tranh vì tự do, cơm áo trong nhân dân cả nước. Đây là những lí do chính để người Pháp đàn áp đẫm máu cách mạng Việt Nam. Hàng trăm đảng viên Cộng sản bị bắt, hầu hết các cơ sở Đảng trong cả nước bị phá vỡ, 13 lãnh tụ của Việt Nam Quốc dân đảng bị lên đoạn đầu đài. Đồng chí Trần Phú - Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng ta - đã bị bắt và sau đó từ trần. Để tỏ lòng tiếc thương, đồng thời khẳng định ý chí của người dân Việt Nam, cũng trên tạp chí Bolchévisme, số ra ngày 26.2.1932, đồng chí Hà Huy Tập đã có bài Tưởng nhớ đồng chí Trần Phú, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương. Bài báo đã khắc hoạ một cách rõ nét quá trình hoạt động cùng những công lao to lớn của đồng chí Trần Phú đối với cách mạng Việt Nam. Bài báo nhấn mạnh: “Đồng chí Trần Phú, Tổng Bí thư của Đảng ta đã mất nhưng tên của đồng chí sống mãi không những trong lịch sử đấu tranh cách mạng của Đông Dương, mà còn sống mãi trong lòng nhân dân lao động Đông Dương, trong thời đại ngày nay và sau này. Sự nghiệp cách mạng, tinh thần hi sinh và đạo đức cách mạng tuyệt vời của đồng chí Trần Phú ở trong nhà tù đế quốc phải được coi là tấm gương sáng chói cho những người cộng sản ở tất cả các nước nói chung và cho những người cộng sản ở Đông Dương nói riêng”.
Cuối những năm 20 đầu những năm 30 của thế kỉ trước, sự xuất hiện của Chủ nghĩa cải lương quốc gia đã có những tác động không nhỏ đối với phương thức đấu tranh cách mạng tại các xứ thuộc địa, trong đó có Việt Nam. Để giúp các nhà cách mạng giữ vững quan điểm, lập trường, đầu năm 1932, Hà Huy Tập đã viết bài Đảng Cộng sản Đông Dương đứng trước Chủ nghĩa cải lương quốc gia. Trong bài báo của mình, ông đã phân tích cặn kẽ sự khác biệt cơ bản giữa hai khuynh hướng quốc gia cải lương và cải lương cách mạng. Hà Huy Tập chỉ rõ chủ nghĩa cải lương quốc gia chính là công cụ của giai cấp tư sản, bao giờ nó cũng đi ngược lại với lợi ích của giai cấp công - nông. Trên cơ sở những phân tích này, Hà Huy Tập đề ra những nhiệm vụ cấp bách cho Đảng Cộng sản Đông Dương là phải cương quyết đấu tranh với tư tưởng phản động của giai cấp tư sản, đồng thời ổn định về mặt nhận thức cho tầng lớp tiểu tư sản, huy động mọi nguồn lực trong nhân dân đứng lên đấu tranh đòi quyền sống cho mình. Mặc dù ở xa tổ quốc, nhưng Hà Huy Tập luôn theo dõi sát mọi diễn biến chính trị tại Đông Dương. Trước những động thái mị dân của nhà cầm quyền thực dân, tháng 3.1932, Hà Huy Tập đã viết bài Những cải cách đế quốc chủ nghĩa. Trong bài viết này, Hà Huy Tập chỉ rõ, mọi sự “cải cách” chỉ nhằm xoa dịu xã hội sau cuộc đàn áp các phong trào cách mạng Việt Nam diễn ra 2 năm trước đó. Sự nới lỏng về mặt luật pháp, sự đầu tư về mặt kinh tế về cơ bản chỉ nhằm phục vụ cho chính sách khai thác thuộc địa của người Pháp, nhằm mục tiêu thâm độc cách li dân chúng với Đảng Cộng sản. Sau khi chỉ rõ âm mưu đen tối của kẻ thù, đồng chí Hà Huy Tập khẳng định: “ Đảng biết động viên quần chúng, nếu Đảng biết vận dụng đường lối đúng đắn của Quốc tế Cộng sản, thì Đảng sẽ thắng cuộc, các điều kiện khách quan là thuận lợi đối với chúng ta hơn bao giờ hết”.
Như trên đã nói, tháng 6.1934, tại Hội nghị Ban chỉ huy ở ngoài diễn ra ở Ma Cao, Hà Huy Tập được giao phụ trách tờ báo Bônsơvích. Có lẽ đây là tờ báo đầu tiên do đồng chí trực tiếp sáng lập và quản lí chung. Mặc dù trên Măng-xét báo ghi là “Cơ quan lí thuyết của Ban chỉ huy ở ngoài của Đảng Cộng sản Đông Dương” nhưng thực chất đây là cơ quan ngôn luận chính của Đảng, bởi lúc này ở trong nước không có tờ báo nào của trung ương. Báo ra số đầu tiên vào tháng 6.1934 in ở nước ngoài nhưng lại chủ yếu phát hành trong nước. Đây là dạng tạp chí, lưu hành nội bộ, viết bằng bút thép trên giấy sáp, khổ 19cm x 24cm. Với bút danh Hồng Thế Công, Hà Huy Tập viết hầu hết các bài xã luận, bình luận về tình hình chính trị trong và ngoài nước trên tờ báo này.
Tháng 8.1936 Hà Huy Tập bí mật về nước. Lúc này, tại Sài Gòn, báo La Lutte (số 1 ra ngày 24.4.1933) đang hoạt động khá sôi nổi. Đây là tờ báo phức tạp về mặt chính trị tập hợp cả những người theo khuynh hướng cộng sản như Nguyễn Văn Tạo, Nguyễn An Ninh, Nguyễn Văn Nguyễn và những phần tử Tờ-rốt-kít như Tạ Thu Thâu, Trần Văn Thạch, Phan Văn Chánh… Vì chưa có điều kiện ra tờ báo riêng nên thời gian đầu hoạt động trong nước, Hà Huy Tập chủ yếu viết cho báo này. Tuy nhiên không vì thế mà các bài viết của ông bị ảnh hưởng bởi các xu hướng chính trị khác. Ông đã nhiều lần vạch rõ những sai lầm của nhóm Tờ-rốt-kít về mặt quan điểm cũng như phương pháp đấu tranh. Để khẳng định lập trường của mình, Hà Huy Tập viết Thư ngỏ gửi nhóm La Lutte đăng báo La Lutte số 122 ra ngày 31.12.1936 chỉ rõ những sai lầm của nhóm Tờ-rốt-kít , kêu gọi các lực lượng gạt bỏ những chính kiến riêng, đoàn kết chống kẻ thù chung. Trên La Lutte số 148 ra ngày 13.5.1937, Hà Huy Tập đã có bài Ủng hộ hay phản đối Mặt trận nhân dân, phê phán quan điểm của nhóm Tạ Thu Thâu muốn giải tán Mặt trận nhân dân Pháp bằng một chính phủ triệt để cách mạng. Ông chỉ rõ: “ Hệ quả trực tiếp là mời bọn giết người phát-xít lên nắm quyền và sau đó, giai cấp vô sản và quần chúng lao động sẽ bị tàn sát, những tàn tích dân chủ tư sản sẽ hoàn toàn bị xoá bỏ, và lúc ấy chỉ sống sót một điều duy nhất: tội ác của những ai đã chuẩn bị cho chủ nghĩa phát xít lên cầm quyền”… Và sau đó, ông khẳng định vai trò cần thiết của Mặt trận nhân dân Pháp đối với cách mang Việt Nam cũng như phong trào cách mạng tại các xứ thuộc địa nói chung: “Sự có mặt của những người tư sản tự do trong Mặt trận nhân dân sẽ tách một bộ phận quan trọng những giai cấp trung gian ra khỏi ảnh hưởng của bọn phản động, gieo rắc sự hoang mang trong một số nhóm phản động của các giai cấp thống trị bản xứ và bằng cách ấy cơ sở xã hội của chủ nghĩa đế quốc sẽ thu hẹp một phần, có lợi cho quần chúng nhân dân”…
Vì những bất đồng ngày càng sâu sắc dễ dẫn tới những hiểu lầm trong dân chúng, Hà Huy Tập và những các đồng chí của mình quyết định rời La Lutte, thành lập tờ L’ Avant-garde. Đây là cơ quan ngôn luận chính thức của Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương. Báo ra số đầu tiên ngày 29.5.1937, do Tổng Bí thư Hà Huy Tập sáng lập và chỉ đạo trực tiếp, Nguyễn Văn Nguyễn làm Thư kí toà soạn, quản lí là Trần Văn Hiển. Cũng như hầu hết những tờ báo của Đảng trước đây, L’ Avant-garde có tuổi thọ rất ngắn ngủi. Báo chỉ sống được 8 số thì bị chính quyền cấm xuất bản. Mặc dù vậy, báo cũng đã ít nhiều gây được tiếng vang trong dân chúng. Bạn đọc cũng đã kịp biết đến bút danh Hongquivit (HQV) của Hà Huy Tập. Ngay trong số 1, ông đã có 2 bài. Bài đầu in trên trang nhất có tiêu đề Quan điểm chính trị của chúng tôi. Ngoài ý nghĩa như lời “phi lộ”, bài này nhấn mạnh đến sự khác biệt giữa những người Cộng sản (nhóm L’ Avant-garde) với nhóm Tờ-rốt-kít (báo La Lutte). Bài báo có đoạn: Chúng tôi tự nhận nhiệm vụ lịch sử nặng nề, giữ vai trò tiên phong của giai cấp vô sản, bảo vệ lợi ích hằng ngày và toàn bộ cho tất cả nhân dân bị áp bức ở Đông Dương, chúng tôi sẽ không ngừng phổ biến trong quần chúng nhân dân xứ này mục đích đúng đắn và cao quí cuộc vận động giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội của Liên Xô là sức mạnh của cách mạng thế giới, hoà bình của toàn thể loài người. Đồng thời là cơ quan chiến đấu và bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin chính thống, chúng tôi đấu tranh không ngừng chống các khuynh hướng tư tưởng thù địch với việc giải phóng giai cấp vô sản và quần chúng nhân dân dưới ách tư bản chủ nghĩa. Chúng tôi tố cáo mọi kẻ thù của Mặt trận nhân dân đứng đầu là bọn lãnh tụ Tờ-rốt-kít chửi bới các Đảng Cộng sản và Liên Xô, chia rẽ phong trào cách mạng quốc tế…”.
Ngoài nội dung có tính chất luận chiến hết sức có giá trị trên, hầu như số nào của L’ Avant-garde, Hà Huy Tập cũng có bài. Các bài viết của ông thời kì này chủ yếu tập trung ở mấy vấn đề: Nêu rõ tầm quan trọng của Mặt trận nhân dân Pháp đối với cách mạng Việt Nam, bảo vệ đường lối đấu tranh của Đảng, chống thực dân, phong kiến và các lực lượng phản động đội lốt cộng sản. Có thể nói, các bài viết của Hà Huy Tập có ý nghĩa như kim chỉ nam cho các chiến sỹ cộng sản lúc đó. Chúng đã góp phần nâng cao nhận thức tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Sau khi L’ Avant-garde ngừng hoạt động, Hà Huy Tập tiếp tục viết bài đăng trên báo Kịch bóng bộ mới với bút danh Châu Dân. Đây là tờ báo của quần chúng tiến bộ được Đảng ta thuê lại, giao cho đồng chí Nguyễn Văn Trấn quản lí. Báo chỉ ra được 1 số ngày 28.8.1937 thì bị cấm. Hà Huy Tập viết cho báo này vẫn tập trung vào việc vạch ra những luận điệu phản động, sai trái của nhóm Tờ-rốt-kít. Để thay thế cho L’Avent-garde, tháng 9.1937 Trung ương Đảng quyết định xuất bản tờ báo tiếng Pháp tiếp theo Le Peuple, do Tổng Bí thư Hà Huy Tập trực tiếp chỉ đạo, đồng chí Dương Bạch Mai làm Giám đốc chính trị, Nguyễn Văn Kỉnh quản lí chung. Thực chất, Le Peuple là phiên bản của L’Avent-garde. Tôn chỉ, mục đích và nhiệm vụ chính trị của hai tờ là giống hệt nhau. Báo phát hành hàng tuần, vào ngày thứ tư, số đầu tiên ra ngày 24.9.1937. Ngoài Le Peuple, cũng trong thời gian này, Hà Huy Tập còn viết cho báo En Avant (báo ra thứ sáu hàng tuần, xuất bản tại Hà Nội, số1 ra ngày 20.8.1937, do Ngô Lê Động sau đến Lưu Bách Đoán làm quản lí)… Hầu hết các bài viết quan trọng của ông sau này đều được in thành sách. Nhiều cuốn đã trở thành tài liệu huấn luyện quan trọng cho các đảng viên.
Sự nghiệp hoạt động báo chí của Hà Huy Tập hết sức phong phú. Thứ văn phong chính trị, lập luận chặt chẽ, khoa học của ông đã có những ảnh hưởng nhất định đối với nhiều thế hệ nhà báo cách mạng sau này. Rất tiếc là, ông đã ra đi quá sớm khi tuổi đời còn trẻ, để lại sự thiệt thòi không gì có thể bù đắp được cho cách mạng nước ta. Theo gương ông, nhiều thế hệ nhà báo-chiến sỹ tiếp tục lao vào trường tranh đấu. Nhiều người đã ngã xuống, nhưng xương máu của họ không bị uổng phí. Thứ xương máu vô cùng quí giá đó đang ngày đêm vun trồng cho rừng hoa Báo chí Cách mạng Việt Nam mãi mãi thắm tươir

NGUYỄN VĂN NGUYỄN: kẻ thù của sự thoả hiệp

Đọc hồi ký của các nhà báo cách mạng viết về thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, chúng ta dễ dàng nhận thấy không ít người đã dành những lời trân trọng nhất để nói về Nguyễn Văn Nguyễn. Ai cũng coi ông như một người bạn, người đồng chí thân thiết, người đã chia ngọt sẻ bùi với họ trong những thời khắc khó khăn nhất của đất nước. Tất cả đều đánh giá ông là nhà báo lỗi lạc, người đã để lại dấu ấn đậm nét trong lịch sử báo chí cách mạng Việt Nam.


Tuổi trẻ đâu sợ trường tranh đấu

Nguyễn Văn Nguyễn sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo, cha làm nghề gõ đầu trẻ trong làng, mẹ tảo tần sớm khuya với ruộng đồng, chắt bóp nuôi 6 người con ăn học. Người cha mất khi ông còn học bậc tiểu học tại quê nhà. Nhờ trí thông minh, cần cù, ham học hỏi nên ông được chính quyền cấp học bổng ngành sư phạm. Một cậu bé mới mười mấy tuổi đầu đã phải rời làng quê, gia đình (xã Điền Hòa, huyện Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho - nay là tỉnh Tiền Giang) lên Sài Gòn lập thân, phải tự lo cho số phận của mình.
Đúng vào thời điểm này (giữa những năm 20 của thế kỷ trước) ở Nam Bộ nói chung, Sài Gòn nói riêng đã xảy ra nhiều sự kiện trọng đại. Các phong trào yêu nước ngày càng lớn mạnh, đấu tranh chống áp bức bất công, đòi quyền sống, quyền bình đẳng cho con người. Mặc dù mới 15 tuổi nhưng Nguyễn Văn Nguyễn sớm nhận thức được lẽ phải, cùng tham gia với nhân dân cả nước. Ông xuống đường đấu tranh, đòi nhà cầm quyền thả chí sĩ Phan Bội Châu, tham gia phong trào để tang nhà yêu nước Phan Châu Trinh. Do cùng đấu tranh với nhiều học viên năng nổ khác, Nguyễn Văn Nguyễn bị đuổi học, ông phải xin vào làm tại công ty xe lửa Đông Dương. Tiếp xúc với tầng lớp lao động nghèo khổ, ông mới thấm thía hết thân phận khốn cùng của người dân mất nước, mới hiểu giá trị của độc lập tự do. Chính trong môi trường này, Nguyễn Văn Nguyễn đã được kết nạp vào Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội và khi bước sang tuổi 20, ông gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam, ngay trong những ngày đầu tiên Đảng ra đời.
Cuộc khởi nghĩa Yên Bái vừa thất bại thì nổ ra phong trào Xô-Viết Nghệ Tĩnh. Thực dân Pháp điên cuồng khủng bố những người cách mạng. Chỉ chưa đầy một năm (từ tháng 7.1930 đến tháng 6.1931) Nguyễn Văn Nguyễn đã hai lần bị bắt. Ông bị xử tù và đày đi Côn Lôn (4.1932). Mặc dù bị giam chung với đủ mọi thành phần, nhưng ông luôn giữ vững khí tiết của người cộng sản. Cùng với các đồng chí, đồng đội Ngô Gia Tự, Nguyễn Chí Diểu, ông tham gia viết báo bí mật trong tù, đấu tranh không khoan nhượng với Chủ nghĩa Tam Dân, với những người theo đường lối quốc gia. Bằng những lập luận đanh thép, chặt chẽ, với những phân tích đánh giá có tình, có lý, tất cả nhằm phục vụ lợi ích dân tộc, Nguyễn Văn Nguyễn đã góp công rất lớn cho sự đoàn kết giữa các xu hướng cách mạng khác nhau. Nhiều người như Trần Huy Liệu, Trương Dân Bảo, Nguyễn Bình, Tô Châu sau này đã giác ngộ lý tưởng cộng sản, một lòng đấu tranh cho sự nghiệp độc lập dân tộc.
Trong hoàn cảnh tù đày thiếu thốn đủ thứ, bị kẻ thù đàn áp, tra tấn dã man, Nguyễn Văn Nguyễn luôn xác định đây chính là nơi thử lửa, là trường học cách mạng lớn của đời ông. Được ở bên lớp đàn anh đi trước, ông đã học hỏi được nhiều kinh nghiệm quí báu cho bước đường hoạt động lâu dài sau này. Cũng tại nơi địa ngục trần gian này, Nguyễn Văn Nguyễn đã bộc lộ khả năng nghệ thuật thiên bẩm của mình. Ông cùng các bạn tù viết những vở kịch, cải lương về lịch sử dân tộc, đề cao truyền thống yêu nước chống ngoại xâm của cha ông. Những tác phẩm này không chỉ làm khuây khỏa nỗi nhớ đất liền khôn nguôi, mà còn là những bài học giáo dục tinh thần bất khuất cho người tù. Chúng như những ngọn lửa trui rèn nên thứ thép quí cho cách mạng. Qua những vai diễn hết sức sống động của mình, Nguyễn Văn Nguyễn như nhịp cầu nối giữa các tâm hồn khốn khổ với nhau. Ông được bạn tù yêu mến, tin cậy, ngay cả kẻ thù cũng hết sức kính trọng. Chi bộ nhà tù mà Nguyễn Văn Nguyễn là một trong những người sáng lập trở thành tâm điểm qui tụ những người yêu nước, dù giữa họ có những xu hướng chính trị khác nhau.
Ngày 20.8.1934, Nguyễn Văn Nguyễn được ra tù. Trở về đất liền ông xông ngay vào trường hoạt động. Đây cũng là lúc chính trường Pháp có nhiều biến động. Môi trường chính trị Đông Dương cũng đỡ nghẹt thở hơn. Báo Đảng cũng như báo của các tổ chức yêu nước, cách mạng lục tục ra trở lại sau vài năm vắng bóng. Được sự khuyến khích của đồng chí Nguyễn Văn Tạo, Nguyễn Văn Nguyễn quyết định viết bài cho báo La Lutte. Đây là tờ báo hội tụ đủ các thành phần tham gia, từ những người cộng sản chân chính đến những đối tượng Trôtkít, những người theo chủ nghĩa quốc gia.
Không chỉ đề cập đến đời sống khổ ải của những người tù đăng trên La Lutte, cùng lúc ông viết về những mối tình hết sức đằm thắm nhưng cũng hết sức ngang trái của những con người mất tự do được phơi bày trên báo Dân Quyền. Đầu năm 1935, Nguyễn Văn Nguyễn thay mặt Đảng đăng ký ứng cử vào Hội đồng thuộc địa Nam Kỳ. Nhiều tờ báo của Đảng đã tuyên truyền vận động cho ông. Để uy hiếp tinh thần những nhà cách mạng, thực dân Pháp bắt giam Nguyễn Văn Nguyễn mấy ngày, hòng bắt ông từ bỏ ý định tham gia đấu tranh nghị trường. Dã tâm của kẻ thù không làm ông nhụt chí. Vừa được thả, ông lại viết bài đăng trên các báo công khai. Hưởng ứng sáng kiến tổ chức Đông Dương Đại hội của Nguyễn An Ninh, Nguyễn Văn Nguyễn đi khắp nơi vận động dân chúng viết dân nguyện gửi cho các đoàn kiểm tra của chính phủ Leông Blum. Mặc dù phong trào không gặt hái được những thành công như mong muốn, nhưng ít nhất nó cũng bước đầu qui tụ được nhân dân, hướng nhân dân đến với con đường đấu tranh đòi tự do, dân chủ, buộc nhà cầm quyền ít nhiều phải tiến hành những cải cách xã hội.
Từ năm 1936, báo La Lutte bị nhóm Trôtkít thao túng. Nhiều bài viết trên tờ báo này ngày càng bộc lộ rõ xu hướng phản động, chống phá quan điểm đệ tam quốc tế một cách dữ dội. Không để bạn đọc hoang mang, Đảng chủ trương ra tờ L’Avant garde, giao cho đồng chí Hà Huy Tập đứng ra chỉ đạo chung, Nguyễn Văn Nguyễn làm nhiệm vụ tổ chức nội dung. Ngày 29.5.1937, báo ra số đầu tiên, dưới măng sét đề: Cơ quan lao động và nhân dân Đông Dương. Bộ biên tập ngoài Hà Huy Tập và Nguyễn Văn Nguyễn ra còn có những nhà báo cách mạng nổi tiếng Nguyễn Thị Lựu, Nguyễn Văn Tạo, Trần Văn Kiệt. Tòa soạn đặt tại số 43, đường Hamelin, Sài Gòn (nay là đường Lê Thị Hồng Gấm). Báo ra bằng tiếng Pháp, ngay trong lời phi lộ tờ báo đã nêu rõ khuynh hướng chính trị của mình: “L’ Avant Garde là tờ báo của tất cả các bạn, chống lại các thế lực đế quốc và phong kiến áp bức, bóc lột. Dựa vào phương pháp Macxit Leninnit, tờ báo sẽ hướng dẫn chắc chắn và tận tụy các bạn cho cuộc đấu tranh vì cơm áo hằng ngày, cho tự do dân chủ xã hội. Tờ báo thức tỉnh sự liên minh xung quanh giai cấp vô sản có tổ chức, liên minh với nông dân, với các giai cấp trung gian, với các phần tử tư sản chống đế quốc. Đó là con đường cứu vớt những người bị áp bức trong giai đoạn hiện nay”. Tờ báo luôn có bài ủng hộ Mặt trận Nhân dân Pháp, đấu tranh với nhóm trôtkít, coi trọng đấu tranh nghiệp đoàn, đòi cải thiện chế độ lao tù…Tuy nhiên, L’Avant Garde chỉ ra được 8 số. Do đấu tranh mạnh mẽ, ngày 29.7.1937, báo bị chính quyền tịch thu. Trước đó ít ngày, Nguyễn Văn Nguyễn và Nguyễn An Ninh bị bắt và ngày 4.1.1938, hai ông bị tòa Thượng thẩm Sài Gòn kết án 2 năm tù, 5 năm biệt xứ. Nhờ sự đấu tranh của báo chí trong nước, cũng như của một số người Pháp tiến bộ, đầu tháng 9.1939, Nguyễn Văn Nguyễn và Nguyễn An Ninh được thả trước thời hạn. Đây cũng là thời điểm chiến tranh thế giới II bùng nổ. Để giữ bình ổn chính trị Đông Dương, người Pháp chủ trương bắt giam hết các nhà cách mạng Việt Nam. Được tự do chưa đầy 1 tháng, ngày 22.9.1939, hai ông bị bắt trở lại, không cần xét xử, ông bị đưa thẳng ra Côn Lôn. Tại đây, ông đã gặp các đồng đội cũ Tôn Đức Thắng, Phạm Hùng, Lê Văn Lương, Nguyễn Duy Trinh… Năm 1944, kẻ thù lại chuyển ông về giam tại Tà Lài, Bà Rá.
Chiến tranh sắp kết thúc, phần thắng thuộc về quân đội đồng minh. Trong cơn hoảng loạn, Nhật tiến hành đảo chính Pháp tại Việt Nam. Trước bối cảnh rối ren đó, khí thế cách mạng bốc cao ngùn ngụt. Quá sốt ruột trước tình thế nước sôi lửa bỏng ở bên ngoài, Nguyễn Văn Nguyễn cùng một số đồng chí đã tổ chức vượt ngục thành công về với cách mạng, về với nhân dân. Với vai trò xứ ủy viên Nam Bộ, Chủ nhiệm Mặt trận Việt Minh Nam Bộ, Nguyễn Văn Nguyễn đã đóng góp sức lực của mình cho công cuộc xây dựng và bảo vệ chính quyền nhân dân. Đầu năm 1946, ông được bầu là đại biểu Quốc hội khóa đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, được ra Hà Nội họp và gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ở thủ đô chẳng được bao lâu, Nguyễn Văn Nguyễn đã phải gấp rút trở lại Nam Bộ để sát cánh cùng nhân dân, đồng đội tiến hành cuộc kháng chiến thần thánh chống thực dân Pháp. Tài năng đức độ của Nguyễn Văn Nguyễn đã tạo nên sự tin cậy của đồng bào, đồng chí đối với ông. Ông được Đảng, Nhà nước tin tưởng giao nhiều trọng trách: Là Ủy viên Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ, Ủy viên Ban tuyên huấn của xứ ủy, Giám đốc Sở thông tin Nam Bộ, Chủ tịch Phân hội Hữu nghị Việt – Xô Nam Bộ… Ở cương vị nào ông cũng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, được đồng đội mến phục, nhân dân tin yêu. Mặc dù rất bận rộn, Nguyễn Văn Nguyễn vẫn tham gia đều đặn việc giảng dạy môn triết học, đường lối tuyên truyền cho các học viên của trường Đảng Trường Chinh. Nhiều học trò của ông giờ đã 70 – 80 tuổi vẫn còn nhớ đến hình ảnh người thầy thông thái, uyên bác của họ. Không ít học viên đã trưởng thành từ mái trường này, góp sức làm nên thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đến giai đoạn cuối, Đảng rất cần những cán bộ có kinh nghiệm, nhiệt huyết như Nguyễn Văn Nguyễn, nên đã quyết định triệu tập ông ra Bắc. Trong hành trình vạn lý gian khổ, ông đã mắc chứng thương hàn và mất trên mảnh đất Bình Định anh dũng quật cường, để lại tiếc thương lớn cho người thân, bạn bè, đồng chí. Ông mất đi là một sự mất mát khó bù đắp cho cách mạng nước ta.

Người chiến sĩ quả cảm trên mặt trận tư tưởng
Cuộc đời hoạt động cách mạng của Nguyễn Văn Nguyễn hết sức phong phú. Rất tiếc là, cho đến nay, vẫn chưa có một cuốn sách nào viết đầy đủ về ông. Tên ông chỉ được nhắc đến trong những trang hồi ký, trong những tác phẩm viết về sự nghiệp của một nhà cách mạng nào đó. Ông Trần Huy Liệu, Nguyễn Văn Chấn, Trần Văn Giàu thường nhắc đến Nguyễn Văn Nguyễn với những trang đầy cảm xúc, đầy tâm trạng. Chỉ riêng bước đường hoạt động báo chí của Nguyễn Văn Nguyễn cũng đã đáng để chúng ta ngưỡng mộ, dành công sức sưu tầm, nghiên cứu. Cùng với những người như Trường Chinh, Trần Huy Liệu, Xuân Thủy, Lưu Quý Kỳ, Võ Nguyên Giáp, Hải Triều, Nguyễn An Ninh…, Nguyễn Văn Nguyễn được coi là tấm gương cho các thế hệ nhà báo noi theo.
Trong suốt cuộc đời của mình, Nguyễn Văn Nguyễn chủ yếu viết cho báo bí mật, bán công khai, nên ông phải sử dụng nhiều bút danh, thậm chí không ký tên. Loại báo này cũng không được lưu chiểu chính thức, giờ đã bị thất lạc gần hết. Chính vì vậy, để nghiên cứu về ông, riêng trên lĩnh vực báo chí, cũng hết sức khó khăn. Bài báo đầu tiên ông viết cho báo nào cũng chưa thể xác định được. Có lẽ bạn đọc chỉ bắt đầu biết đến ông qua thiên phóng sự dài kỳ phản ánh đời sống khắc nhiệt của các tù nhân tại Côn Lôn. Thiên phóng sự này đăng trọn vẹn trên báo La Lutte, trong gần 60 số. Thực ra, việc phản ánh tình hình chính trị ở Côn Đảo đã có nhiều người viết. Người thì ngùn ngụt giọng văn tố khổ, căm phẫn, người thì giữ vai trò quan sát điềm tĩnh mô tả một cách khách quan. Nguyễn Phúc Bửi Đình viết trên Phụ nữ tân văn không sử dụng triệt để ngôi thứ nhất, nhiều khi coi mình là kẻ ngoài cuộc, cho dù tác giả cũng từng là người tù “sang trọng” của hòn Đảo địa ngục này. Nguyễn Văn Nguyễn có đôi điểm khác. Ngoài việc tố cáo tội ác phi nhân tính của nhà cầm quyền thực dân, như phơi bày thực trạng của xà lim cầm cố, sự đày ải người tù tại hầm xay lúa, nỗi vất vả của kẻ phải trầm mình dưới biển sâu để tìm san hô..., ông rất quan tâm tới sinh hoạt thường nhật của người tù. Chỉ với vài nét chấm phá, Nguyễn Văn Nguyễn đã phác hoạ được tinh thần lạc quan, tin tưởng ở tương lai của những người tù chính trị. Không như nhiều cây bút khác, thường sử dụng thứ ngôn từ đanh thép để mô tả thảm trạng của tù nhân, ông dùng giọng văn hài hước, coi nỗi khổ ải như một lẽ tất yếu của những người cách mạng chân chính. Ông hay ví von chua chát: “Trông khám tù không khác nào một chuồng khỉ ở vườn Bách Thảo. Chỉ khác là chuồng khỉ còn rộng rãi, thông thoáng, mát mẻ hơn mà thôi”. Đôi khi, chỉ một tiêu đề ngắn, ông đã lột tả được tất cả, chẳng hạn như “Đàn bò không có sừng”, để viết về nỗi cực nhọc, sự đối xử tàn tệ của chế độ nhà tù thực dân đối với người tù khổ sai. Những điều Nguyễn Văn Nguyễn mô tả bao giờ cũng thực tế, sinh động, bởi đó chính là cuộc sống ông đã trải qua “Nước biển sâu, đêm trời lạnh, mặc kệ, cứ phải lặn xuống mãi. Những san hô bé thường có những đầu rất nhọn, mặc dù thế, cứ phải lấy. San hô lớn hơn thì bám rất chắc vào đá, phải dùng một thanh sắt rắn, sắc bẩy mạnh lên mới bứng đứt rễ được. Khi tù đã làm xong việc, trở về banh thì thấy chân tay đã có nhiều vết thương, máu chảy đỏ lòm. Dầm tay trong nước mặn lâu, các vết thương càng xót, đau điếng người”. Không được chăm sóc y tế, mỗi banh rộng chừng 100m2 nhốt hơn 80 con người, mùa hè thì nóng như rang, mùa mưa thì lạnh buốt thấu xương, đã thế bữa ăn còn bị cắt xén gần hết, mỗi bữa chỉ có ít gạo hẩm, mọt nhiều hơn gạo với vài con cá khô “đến chó ngửi cũng không thèm nữa”. Cuộc sống địa ngục đã được Nguyễn Văn Nguyễn kết luận: “Rất nhiều tù nhân đã không kham nổi chế độ khắc nghiệt như thế đành phải liều bỏ trốn. Nhưng hầu hết những người bỏ trốn đều bị bắt lại và bị phạt: “Lần thứ nhất, 30 ngày giam trong hầm tối, lần thứ hai tăng lên 60 ngày. Có người đã bị phạt đến lần thứ 20 vì bỏ trốn. Họ nghĩ rằng: Thà ở hầm hoặc bị cá mập biển Đông ăn thịt còn sướng hơn ở sở chuồng bò”. Theo ông kể lại thì đã có nhiều tù nhân tự tử, có người tự sát đến mấy lần mới chết.
Trong cái thế giới tối đen của ngục tù trên, Nguyễn Văn Nguyễn vẫn cố gắng tìm ra những tia sáng mong manh để từ đó gây dựng nên cho mình niềm tin vào cuộc sống, vào con người. Từ chính cái thế giới bạo tàn đó, ông đã viết về tình yêu. Đó là tác phẩm “Tình trong tù” do Đông phương thư xã ấn hành, năm 1938. Trong cuốn sách này (đã được đăng tải trên báo Dân quyền, năm 1935), Nguyễn Văn Nguyễn sử dụng bút danh Ngũ Yến. Ngay trong lời tựa, Nguyễn Văn Nguyễn đã nói rõ lý do tại sao ông viết cuốn sách: “Vì thế chuyện Tình trong tù chẳng những nói về tình trai với gái hoặc là đồng tính luyến ái, mà lại nói luôn về tình bầu bạn, cái tình nó giúp người ta sống trong cảnh tù”. Đọc những câu chuyện tình này, ngoài những hạn chế khó tránh khỏi ra, điều quan trọng nhất là nó đã nói lên được tính lạc quan cách mạng mà có lẽ chỉ những người cộng sản mới có. Đọc những trang viết về cảnh yêu đương đồng giới, người đọc không có cảm giác ghê tởm như thường thấy, mà họ thấy xót xa cho những thân phận bị tước đoạt tự do, luôn phải đối mặt với những thiếu thốn, bị hành hạ thể xác và dằn vặt về tinh thần. Sẽ khó có cảnh nào bi thiết hơn cảnh đôi trai gái tù nhân ngồi rủ rỉ bên nhau, mặc cho quan toà đang xét xử, mặc những viên sen đầm bu quanh, mặc xiềng xích và tiếng vo ve của đời thường, họ vẫn thì thầm vào tai nhau những lời yêu đương. Đúng vào lúc toà kết án, cũng là lúc họ đã cam kết nên vợ nên chồng, gắn bó keo sơn. Thế là cũng từ giây phút đó, sống vây hãm giữa bốn bức tường đá lạnh lẽo, đôi trai gái bị cách li vẫn thầm nuôi hi vọng, một lòng thuỷ chung, son sắt. Cảnh yêu trong tù cũng đã được nhiều tác giả nước ngoài đề cập tới, nhưng trong tác phẩm của Nguyễn Văn Nguyễn, điều đó không chỉ được miêu tả thuần tâm sinh lí, mà trong tác phẩm này còn toát lên những giá trị thẩm mĩ và giáo dục rất cao. Sự trong sáng của tình cảm ở đây, dường như chỉ có ở những nhân cách chân chính, ở những con người cách mạng sống có lí tưởng, có hoài bão, cái chung luôn đặt trên cái riêng. Trong các bài viết của ông, đôi khi cũng đặt ra những cảnh huống éo le, những bản năng đời thường, thậm chí có những chỗ đầy dục tính, nhưng thông qua đó, Nguyễn Văn Nguyễn dường như muốn tố cáo chế độ phong kiến, thực dân đã chà đạp lên quyền sống của con người, tước đoạt đi cả những cái tưởng chừng như nhỏ bé nhất, mỏng manh nhất. Chị Việt Hoa, anh Lại, anh Kỉnh rõ ràng chỉ là những nạn nhân của một chế độ phi nhân tính. Nhờ có tình yêu chắp cánh mà nằm trong khám tử hình: “Anh thú thật rằng cái khoảng đời của anh nằm trong khám xử tử là sung sướng hơn hết. Điều ấy chẳng lạ gì. Nằm chờ chết khỏi lo, khỏi nghĩ. Với kẻ khốn nạn, có một triết học duy vật của giai cấp thợ thuyền, một điều hạnh phúc nhỏ nhen mà cá nhân họ được hưởng cũng đủ làm cho họ vui sướng trong bốn tấm vách tường. Những tư tưởng hy sinh đã nhuần thấm trong trí não họ, lúc họ lướt xông vô trường tranh đấu mà đóng vai tiền đội chiến sỹ. Cái đời của họ, họ biết trước rằng thế nào rồi cũng đi đến đó, bây giờ nó đã đến đây, họ không lạ gì”.
Trong số những bài viết của Nguyễn Văn Nguyễn hiện chúng ta có trong tay, có lẽ những tác phẩm ra đời từ quãng những năm 1935 trở về sau là chứa đựng tính báo chí nhất. Đây cũng là thời kỳ mặt trận Bình dân Pháp lên cầm quyền ở Pháp và ở Đông Dương, tình hình chính trị lúc này dễ thở hơn. Hàng loạt tờ báo của Đảng đã hoạt động trở lại, chi phối gần như tuyệt đối mặt trận báo chí, cả công khai và bán công khai. Qua các bài viết của ông, chúng ta nhận thấy Nguyễn Văn Nguyễn có nhãn quan chính trị rất tinh tường: “Chiến tuyến bình dân chẳng phải nảy nở trong các phòng viết của những nhà lãnh tụ chính trị. Nó cũng không phải là một mưu mô của các đảng phái tả dực. Nó phát sinh ra nơi trường tranh đấu của dân chúng”. Nguyễn Văn Nguyễn nhận định: “Cái phong trào chiến tuyến bình dân chỉ mới đang chiến thắng nơi nghị trường. Sức nó còn đi lên nữa...”. Rồi ông nhấn mạnh: “Chăm chú cho sự chiến thắng ở nghị trường mà bỏ qua các phong trào của dân chúng, không theo phong trào ấy, hững hờ cái quá trình của sự tranh đấu của bình dân trong phong trào chiến tuyến bình dân ấy là điều sai lầm to lắm. Bình dân Pháp cầm quyền, dân Đông Dương có nhiều hi vọng”- báo Mai, số 15 ngày 6.6.1936.
Cùng với Nguyễn An Ninh, Nguyễn Văn Nguyễn hết sức ủng hộ việc tổ chức Đông Dương đại hội. Nguyễn Văn Nguyễn có hàng loạt bài phê phán những nhóm cách mạng đầu lưỡi đang tìm cách phá hoại chủ trương tranh đấu của Đảng ta. Ông lên án quan điểm của nhóm Trôtkit của Hồ Hữu Tường, Hải Vân (tức Trần Văn Bảng), Trần Văn Thạch: “Chúng đã nhận rằng nếu chỉ hi vọng không, không tranh đấu thì không được gì hết. Hi vọng đó là ngông cuồng, phải tranh đấu. Phải tom góp các lực lượng của dân chúng lại, phải làm cho cái phong trào ấy bồng bột lên, phải lãnh đạo cho người ta đòi những sự cải cách và bát gạo của người ta, là nhiệm vụ của hết thảy những ai tự xưng là chiến sĩ của giai cấp thợ thuyền”- báo Việt Nam, ngày 10.9.1936. Bên cạnh đó, Nguyễn Văn Nguyễn còn vạch trần thói giả nhân giả nghĩa của phái Lập hiến do Bùi Quang Chiêu cầm đầu, chỉ ra tính chất mị dân của những kẻ đưa ra chủ thuyết Pháp - Việt đề huề: “Thoả hiệp với thực dân chủ nghĩa, thoả hiệp với những nhà băng, với các lực lượng chỉ huy tất cả nền kinh tế thuộc địa để mà khai khẩn. Một cái chính sách đề huề như vậy, dân chúng rất lãnh đạm, hoài nghi nên đối với nó, dân chúng rất thờ ơ, khinh rẻ, mặc dầu các vị lãnh tụ Pháp - Việt nhứt gia cho rằng đề huề tức là mở rộng ra về mọi phương diện chánh trị xã hội và kinh tế”- báo Mai, ngày 14.11.1936. Ngoài ra, Nguyễn Văn Nguyễn còn viết nhiều bài phê phán quan điểm chống CNXH, nói xấu nhà nước Xô - Viết của nhà văn Pháp André Gide. Ông lên án nhà văn này đã phản bội lại giai cấp cần lao, vào hùa với chủ nghĩa thực dân, phát xít để bóc lột dân chúng. Để khẳng định lập trường đúng đắn của nhà văn vô sản, Nguyễn Văn Nguyễn đã tập trung trí tuệ viết bài giới thiệu tác phẩm có tính lí luận sâu sắc “Văn sĩ và xã hội” của Hải Triều (tức Nguyễn Khoa Văn). Cũng như Hải Triều, Nguyễn Văn Nguyễn luôn khẳng định vai trò to lớn của văn sĩ đối với xã hội. Ông viết: “Văn sĩ và xã hội quan hệ nhau. Bao nhiêu những bi kịch do sự mâu thuẫn của xã hội gây ra, nhà văn lấy cảm giác và thiên tài của mình mà cho quần chúng nhận thức bằng tình cảm. Cái đó người chiến sĩ không thể làm được”. Rồi ông kết luận: “bao nhiêu những bi kịch thê lương mà cái xã hội bề ngoài phẳng lặng che lấp, bao nhiêu những sự xâu xé lẫn nhau vì lợi lộc, bao nhiêu những quả tim đau đớn vì bán sức lao động kiếm ăn, nhà văn cần phải tố giác ra, không phải để cho thiên hạ thấy sự thối tha của đời mà chán đời nhưng để cho thiên hạ tranh đấu mà sống”- báo Mai, ngày 18.5.1937.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Nguyễn Văn Nguyễn bám trụ lại miền Nam, giữ nhiều trọng trách trong lĩnh vực văn hoá thông tin. Mặc dù làm công tác quản lí nhưng ông vẫn thường xuyên viết cho các báo. Đặc biệt, mỗi ngày ông đều có một bài bình luận hoặc xã luận phát trên sóng Đài Phát thanh tiếng nói Nam Bộ. Ở Đài này, ông giữ mục Câu chuyện hàng ngày, Câu chuyện nước Pháp. Các bài viết của ông bao giờ cũng nhằm vào những đối tượng cụ thể có liên quan mật thiết với môi trường chính trị Việt Nam, khi là bọn Việt gian bán nước, lúc thì nhằm vào chính quyền thực dân phản động. Điều đáng ngạc nhiên là, ông rất ít khi đề cập tới chính bản thân lực lượng kháng chiến. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, ngoài báo chí ra, Nguyễn Văn Nguyễn còn viết sách bàn về những tiêu chuẩn của một cán bộ cách mạng, bàn về cách thức tuyên truyền sao cho có hiệu quả nhất. Văn phong của ông giản dị, dễ hiểu, được bạn đọc hết sức yêu thích. Tuy đôi khi còn sa vào tự nhiên chủ nghĩa, nhưng quan điểm, lập trường của ông luôn vững vàng, trước sau như một. Chính vì vậy mà ông luôn được Đảng và nhân dân tin cậy giao cho nhiều trọng trách lớn lao. Rất tiếc là, đang ở tuổi sung sức nhất, đạt đến độ chín nhất thì ông ra đi vì một cơn bạo bệnh. Mất ông, Đảng mất đi một chiến sĩ văn hoá tài năng, người luôn mang trong mình bầu nhiệt huyết sục sôi. Sự nghiệp của ông, thân thế của ông như ngọn hải đăng cho các thế hệ nhà báo soi vào, tiếp bướcr

ĐÂU CŨNG LÀ NHÀ - ĐÂU CŨNG LÀ QUÊ HƯƠNG

Bất kỳ ai khi tới Minh Hải (nay đã tách thành 2 tỉnh Cà Mau - Bạc Liêu) đều không khỏi lấy làm ngạc nhiên khi đi tới đâu họ cũng nghe thấy cái tên Phan Ngọc Hiển. Từ người già, trẻ em, anh xe ôm tới tay bợm nhậu, dù đang “biêng biêng”, nhưng hễ nghe nhắc tới Phan Ngọc Hiển là thái độ trở nên khác hẳn. Sự thành kính, trân trọng hiện lên trên từng nét mặt. Đã từ rất lâu người dân nơi đây coi Phan Ngọc Hiển như người thân, ruột rà, là hình mẫu lý tưởng để họ noi theo. Tên ông đã từng được đặt cho một huyện thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Giờ cái tên này gắn liền với hàng chục địa danh ở Cà Mau, Bạc Liêu. Nào là huyện Phan Ngọc Hiển, xã Phan Ngọc Hiển, đại lộ Phan Ngọc Hiển, trường Phan Ngọc Hiển... Cuộc đời nhà báo, nhà văn, nhà giáo, nhà cách mạng Phan Ngọc Hiển đã được nhà thơ Nguyễn Bá khắc hoạ khá rõ nét trong bản trường ca Hòn Khoai, được nhà điêu khắc Phước Sanh thể hiện qua hình tượng cánh buồm tượng trưng cho khát vọng tự do, được nghệ sĩ Trọng Nguyễn xây dựng thành vở cải lương Bóng biển nổi tiếng đã từng làm bao thế hệ khán giả khi xem phải rơi lệ. Vậy Phan Ngọc Hiển là ai mà gắn bó máu thịt với hàng triệu người dân nơi đây. Sự nghiệp hoạt động cách mạng của ông đã để lại những gì cho các thế hệ mai sau?
Phan Ngọc Hiển sinh năm 1910 tại thị xã Cần Thơ (nay là thành phố Cần Thơ) trong một gia đình nghèo. Vừa mới lên 10, ông đã mồ côi mẹ. Không muốn đứa con nhỏ dại phải rơi vào cảnh tăm tối, người cha đã cố công làm lụng vất vả để nuôi dạy Phan Ngọc Hiển nên người. Trong số mấy anh chị em, ông là người được ăn học đến nơi đến chốn nhất. Sau khi rời trường tỉnh, Phan Ngọc Hiển lên Sài Gòn theo học tại trường trung học sư phạm với hy vọng trở thành thày giáo đem lại ánh sáng cho đời. Không như bao kẻ “an phận thủ thường” cốt lấy tấm bằng để kiếm miếng cơm manh áo, Phan Ngọc Hiển tuy vẫn cố gắng học tập để khỏi phụ công nuôi dưỡng của người thân, nhưng trong tận đáy sâu tâm khảm, ông vẫn ngầm nuôi một chí trai lớn. Từ sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918) tình hình chính trị - xã hội nước ta có nhiều diễn biến phức tạp. Các hội, đoàn thể, đảng phái yêu nước manh nha xuất hiện thu hút đông đảo quần chúng nhân dân lao động đứng lên đấu tranh với bất công xã hội. Những bài viết nảy lửa của Nguyễn An Ninh, Phan Văn Trường, Trần Huy Liệu trên các tờ Chuông rè (La Cloch fêlée), An Nam (le Annam), Đông Pháp thời báo đã có những tác động mạnh mẽ đến nhận thức, tư tưởng tầng lớp thanh niên. Các sự kiện gây chấn động dư luận trong nước và quốc tế lúc đó như phong trào đòi thả hai ông Phan Bội Châu (1925), Nguyễn An Ninh (1926), đặc biệt là đám tang cụ Phan Chu Trinh kéo dài gần một năm trời với khẩu hiệu “Truy điệu Tây Hồ nhật hoán tỉnh quốc dân hồn” báo hiệu cơn bão cách mạng đang đến gần. Người dân Nam Kỳ nói riêng, dân tộc Việt Nam nói chung không còn cam chịu thân phận nô lệ nữa. Họ đang tìm cách đứng lên đòi lại quyền sống cho mình. Không khí này không làm cho Phan Ngọc Hiển - chàng trai tỉnh lẻ vừa đặt chân lên đất Sài Gòn hoa lệ - bỡ ngỡ. Ngược lại, ông có cảm giác nơi đây mới thực là môi trường phù hợp để ông vùng vẫy, để thực hiện mọi khát khao, ước vọng của mình. Tham gia phong trào học sinh - sinh viên, ông luôn sát cánh cùng bạn bè xuống đường đấu tranh đòi nhà cầm quyền thực hiện cải cách xã hội. Nhận thấy mối nguy hiểm mà chàng thanh niên chưa đầy 20 tuổi này có thể đem lại, Ban Giám hiệu trường Trung học Sư phạm Sài Gòn đã nhiều lần cho gọi Phan Ngọc Hiển lên đe doạ, cảnh cáo nhưng không hiệu quả. Cuối cùng, nhà trường phải áp dụng hình thức đình chỉ học tập 1 năm đối với ông. Những biện pháp có tính răn đe này không làm lung lay lý tưởng cách mạng của Phan Ngọc Hiển. Khi trở lại Sài Gòn, ông tiếp tục lao vào trường hoạt động, đến năm 1931, Phan Ngọc Hiển mới chính thức tốt nghiệp.
Sẵn có tên trong “sổ đen” nên Phan Ngọc Hiển “được” phân công về dạy học tại Rạch Gốc, mảnh đất chót cùng của tỉnh Cà Mau. Rừng thiêng nước độc, muỗi mòng, đói khát, bệnh tật không làm nhụt ý chí của chàng trai vừa bước qua tuổi 20. Vừa tới Rạch Gốc, Phan Ngọc Hiển đã vận động bà con đóng góp xây dựng trường lớp khang trang, kêu gọi mọi người thực hiện nếp sống có vệ sinh, tạo điều kiện cho con em học tập, tự ông đứng ra lập hội ca nhạc, đội bóng đá để tập hợp, tuyên truyền tinh thần yêu nước cho thanh niên. Đối với số tiền lương giáo viên nhà nước cấp, Phan Ngọc Hiển dùng để mua sách vở cho học sinh hoặc giúp đỡ những người khốn khó. Để duy trì cuộc sống, ông thường xuyên cùng người dân nơi đây vào rừng đốn củi, đốt than, theo thuyền ra biển đánh cá, chèo ghe đi bán ba khía, ốc len... Nhiều người ái ngại cho nhà giáo trẻ vừa rời thành phố, chưa quen với đời sống khổ cực ở thôn quê, Phan Ngọc Hiển đã đáp lại tình cảm đó bằng một câu hết sức giản dị, chân thành “Cô bác ở đây sống được thì con cũng sống được chứ gì”. Nhờ biết hoà mình vào đời sống lam lũ, biết thông cảm, chia sẻ, đùm bọc những ai đang gặp khó khăn, hoạn nạn, Phan Ngọc Hiển ngày càng được nhân dân địa phương yêu thương, kính trọng. Tiếng lành đồn xa, lớp của ông thu hút được rất đông người đến học. Ngoài việc truyền đạt kiến thức, lễ nghĩa thông thường, Phan Ngọc Hiển luôn tìm cách đưa vào chương trình giáo dục lịch sử những kinh nghiệm khơi gợi lòng yêu nước, đề cao truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm của ông cha. Những việc làm của ông không thoát khỏi sự theo dõi sát sao của nhà cầm quyền. Sau vụ quần chúng nhân dân địa phương biểu tình đấu tranh đòi giảm thuế, tố cáo sự ức hiếp, nhũng lạm của đám hội tề (1935), bọn mật thám đã bắt Phan Ngọc Hiển với tội danh cầm đầu vụ nổi loạn. Trước sự đối đáp cứng cỏi, có tình có lý, hơn nữa, cũng không đủ chứng cứ, nên cuối cùng chúng buộc phải thả ông nhưng cấm ông không được dạy học tiếp. Không còn lệ thuộc vào đời công chức, Phan Ngọc Hiển ngao du khắp Nam Bộ, tìm cách bắt liên lạc với những người theo chủ nghĩa cộng sản. Tổ chức thấy Phan Ngọc Hiển rất am hiểu vùng đất Cà Mau nên đã cử ông về đây cùng cán bộ, đảng viên địa phương gây dựng phong trào và coi đây như là môi trường rèn luyện, thử thách một chiến sĩ cách mạng trẻ đầy triển vọng. Chỉ với thời gian rất ngắn, Phan Ngọc Hiển đã khẳng định được nhân cách của mình. Đầu năm 1936, ông chính thức trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, nhanh chóng trở thành cán bộ cốt cán của chi bộ đảng địa phương. Chỉ trong quãng thời gian gần một năm, Phan Ngọc Hiển cùng các đồng chí của mình kết nạp nhiều thanh niên tốt vào hàng ngũ của Đảng, xây dựng lực lượng nòng cốt cho những cuộc đấu tranh cách mạng đầy cam go sau này.
Cuối năm 1936, trước nguy cơ nạn đói lan tràn, huyện uỷ Cà Mau đã tổ chức một cuộc biểu tình lớn với sự tham gia của toàn bộ nhân dân các xã đấu tranh đòi giảm thuế, cứu đói, đòi trừng trị bọn sâu mọt đục khoét của dân. Diễn biến của cuộc biểu tình rất phức tạp dễ lây lan sang các huyện lân cận. Chính quyền thực dân đã ra lệnh bắt Phan Ngọc Hiển và một số đồng chí mà họ cho là đã tổ chức, cầm đầu cuộc biểu tình. Trước sức đấu tranh mạnh mẽ của nhân dân bên ngoài và của các đồng chí đang bị giam tại nhà tù Bạc Liêu, cuối cùng, người Pháp buộc phải thả Phan Ngọc Hiển nhưng cho mật thám theo dõi ông hết sức gắt gao. Để tránh tổn thất không cần thiết, xứ uỷ Nam Kỳ điều động Phan Ngọc Hiển về Sài Gòn làm biên tập cho tờ Lao động - Cơ quan bênh vực quyền lợi giai cấp cần lao của xứ uỷ Nam Kỳ, người quản lý là Nguyễn Thành A. Đến cuối năm 1938, tình hình thế giới có nhiều biến động phức tạp. Chiến tranh thế giới lần thứ II chuẩn bị nổ ra. Phe cực hữu lên cầm quyền ở Pháp, đàn áp dữ dội những người cộng sản và các đảng phái theo xu hướng dân chủ - xã hội. Tình trạng bắt bớ những nhà cách mạng Việt Nam cũng bắt đầu được tiến hành. Trước thực tế này, Đảng ta chủ trương chuẩn bị rút vào hoạt động bí mật, phân tán lực lượng. Nhiều đảng viên đi về nông thôn, Phan Ngọc Hiển trở lại Rạch Gốc lãnh đạo chi bộ đảng ở đây, cùng các đồng chí tổ chức, xây dựng chi bộ Hòn Khoai... Đến đầu những năm 40 của thế kỷ 20, Nhật vào Đông Dương, dân tộc ta phải chịu cảnh một cổ hai tròng. Đây cũng là lúc cuộc chiến tranh Pháp - Thái nổ ra. Xứ uỷ Nam Kỳ nhận thấy phong trào cách mạng của quần chúng đang lên, là cơ hội thuận lợi để tiến hành khởi nghĩa. Khoảng giữa năm 1940, lệnh khởi nghĩa được gửi đến hầu khắp các địa bàn trọng điểm của Nam Kỳ, trong đó có Cà Mau mà địa điểm Hòn Khoai do Phan Ngọc Hiển xây dựng cơ sở từ lâu là nơi mở màn cho việc cướp chính quyền. Nhận được báo cáo của xứ uỷ Nam kỳ, Ban chấp hành Trung ương đảng ta gấp rút tiến hành một số cuộc họp, cuối cùng ra chỉ thị ngừng ngay cuộc khởi nghĩa lại. Thất bại của cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn cho thấy, lực lượng của ta chưa đủ mạnh, thời cơ tiến hành khởi nghĩa chưa chín muồi. Đồng chí Phan Đăng Lưu mang bản chỉ thị này về đến Sài Gòn thì bị bắt. Kế hoạch khởi nghĩa bị bại lộ, chỉ thị ngừng khởi nghĩa không đến được nhiều nơi. Đêm ngày 13.12.1940 Phan Ngọc Hiển cùng các đồng đội tiến hành cướp đảo, giết chết tên sếp đảng Ôlivie, sau đó dùng thuyền vượt biển về phối hợp với lực lượng trên đất liền cướp chính quyền. Không liên lạc được với Tỉnh uỷ, Phan Ngọc Hiển chỉ huy anh em đánh chiếm đồn kiểm lâm Tân Ân, sau đó cùng bà con Rạch Gốc chạy vào rừng để bảo tồn lực lượng, tránh sự khủng bố của kẻ thù. Rừng đước rậm rạp đầy muỗi vắt, đâu đâu cũng là đầm lầy nước mặn. Cái đói, cái khát, sự mệt mỏi sau hơn 6 ngày vượt sông, vượt rừng đã hút tàn sức lực mọi người. Phan Ngọc Hiển và một số đồng chí rơi vào tay giặc, trong đó có Thường vụ tỉnh uỷ Quách Văn Phẩm.

CƠN QUỐC LOẠN AI LÀ HỒN NGHĨA SĨ

Từ những năm 1935 - 1936 chính phủ cánh tả tại Pháp bước đầu thực hiện một số cải cách xã hội đối với thuộc địa. Người của Mặt trận Bình dân được cử đi khắp nơi để điều tra tình hình. Trước tình hình đó, Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương quyết định tạm gác khẩu hiệu độc lập dân tộc, chú trọng đấu tranh đòi các quyền tự do dân chủ, cải thiện đời sống nhân dân., nhằm vào kẻ thù trước mắt là bọn phản động thuộc địa và tay sai, vào chủ nghĩa phát xít. Đảng chủ trương thành lập Mặt trận Dân chủ, thông qua các nhân sĩ, trí thức ngoài đảng đứng ra tổ chức Đông dương đại hội, lập Hội truyền bá chữ quốc ngữ. Một số chính trị phạm được tha trước kỳ hạn ra tranh cử vào Viện Dân biểu, đẩy mạnh hình thức đấu tranh nghị trường, dùng báo chí để vạch trần bọn Trôtkit...
Thực hiện chủ trương trên của Đảng, tỉnh uỷ Sa Đéc đã bí mật hỗ trợ cho tờ Tân Tiến (Giám đốc Lê Quang Trịnh, quản lý Hồ Văn Sao, sau là Trương Vĩnh Ny, lúc đầu ở Sa đéc sau chuyển về Sài Gòn). Đây là một trong những từ báo cách mạng lớn của cả dải đất Nam Bộ. Ngay từ, những ngày đầu, Phan Ngọc Hiển (với bút danh Phan Phan) đã là phóng viên trụ cột của tờ báo này. Hiện nay, chính quyền địa phương Cà Mau - Bạc Liêu đã sưu tầm được 70 bài báo của Phan Ngọc Hiển viết cho Tân Tiến. Sự nghiệp làm báo của ông chắc chắn không chỉ dừng lại ở con số này. Đọc những bài viết của Phan Ngọc Hiển trên báo Tân Tiến, ai cũng có thể nhận thấy đây là một cây bút có nghề, từng trải, có kinh nghiệm và vốn sống dồi dào, quan điểm, tư tưởng được thể hiện đầy bản lĩnh. Điều này cho thấy, khi còn theo học ở trường Trung học Sư phạm, Phan Ngọc Hiển đã viết cho báo chí Sài Gòn đương thời. Đáng tiếc là, cũng như hầu hết các nhà yêu nước, cách mạng lúc đó, Phan Ngọc Hiển phải thường xuyên sử dụng bút danh, nên đã gây ra rất nhiều khó khăn cho những ai quan tâm nghiên cứu về sự nghiệp hoạt động báo chí của ông. Qua 70 bài viết, Phan Ngọc Hiển đã bộc lộ rõ là một cây bút đa tài, sử dụng khá nhuần nhuyễn các thể loại xã thuyết (xã luận), phóng sự, điều tra, phỏng vấn, tường thuật, ký sự, tuỳ bút, thơ, truyện ngắn, truyện dài kỳ. Tuỳ theo từng đối tượng, đề tài mà ông có thể dùng riêng rẽ hay kết hợp một cách uyển chuyển hai hay ba thể loại trong một bài viết. Đây chính là cái tạo nên phong cách Phan Ngọc Hiển, tạo điều kiện để ông mở rộng phạm vi phản ánh , dễ hấp dẫn, lôi cuốn độc giả. Tuy nhiên, theo đánh giá của một số người, thế mạnh của Phan Ngọc Hiển tập trung ở các thể loại điều tra. Không phải ngẫu nhiên mà ông Hồ Văn Sao đã tin tưởng giao nhiệm vụ cho Phan Ngọc Hiển đi khắp Nam Kỳ để nắm tình hình dân chúng tại các vùng thôn quê hẻo lánh. Chính nhờ chuyến đi này mà ông viết được những bài viết gây xôn xao dư luận lúc đó như Vào quê, Về vụ kiểm lâm Cà Mau, Vấn đề độc quyền nước mắm, Nhà thương... trong các bài điều tra này, tác giả bao giờ cũng đặt mình ở ngôi thứ nhất, là người chứng kiến hoặc thậm chí là người trong cuộc. Đây là điều kiện tốt nhất để người viết trực tiếp bộc lộ chính kiến riêng, dễ sử dụng thế mạnh của ngôn ngữ biểu cảm. Qua đây, người đọc có thể cảm nhận được ngay thái độ của Phan Ngọc Hiển đối với thời cuộc. Sự đồng cảm, xót xa của ông luôn dành cho người nghèo, tầng lớp dưới đáy trong xã hội. Phan Ngọc Hiển coi việc mở mang dân trí như một cứu cánh để thoát khỏi lầm than, đói nghèo. Để chống lại chính sách ngu dân của người Pháp, mơ ước cháy bỏng của ông là lập được ở mỗi làng một thư viện bình dân. Ông viết: “Ở thôn quê cái lệ cúng thần này thần nọ hết chẳng biết bao nhiêu tiền của - cúng rồi, dân chẳng đặng mở mang gì ráo, chỉ dọn ra rượu thịt ê hề cho mấy ông no say đặng quên pháp luật, đặng xưng chúa tể thôn quê! Tôi cho là vô ích... Nhiều ông giàu có trong đôi ba ngày xài cả bạc ngàn. Như trong hội chợ nào đây có ông nọ dám chịu 500 bạc mướn một hội thổi kèn. Cái danh ấy là hư danh! Phải chi ngài để số tiền ấy xin chánh phủ cho phép lập một bình dân thơ viện trong làng thì quý biết chừng nào...”. - Bài Người thương nước nên mở mang dân trí. Ngoài tầng lớp lao động ra, Phan Ngọc Hiển quan tâm đặc biệt đối tượng thanh niên, luôn coi họ là lực lượng chính đưa đất nước thoát khỏi vòng nô lệ: “Thanh niên là một đám người có hồn, có chí, có lực... Làm thanh niên là làm cái sườn chống chỏi giông tạt, gió đùa, cho khỏi nhà xiêu cửa ngã. Làm thanh niên là làm những bức tường cao bảo tồn sự nghiệp tổ tiên để lại”. Phan Ngọc Hiển luôn khuyến khích thanh niên “Bước tới, bước tới, bước mau tới ánh sáng”. Con đường đến với ánh sáng ở đây là “học thầy, tự học, học bạn”. Thứ lý tưởng mà Phan Ngọc Hiển xác định cho thanh niên lúc này là học vấn, kiến thức chứ không phải con đường cách mạng mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã mở lối từ những năm 1930. Nói chung hạn chế lớn nhất trong các bài viết của Phan Ngọc Hiển là mới chỉ đấu tranh đòi cải cách xã hội, chưa đặt ra vấn đề đấu tranh xoá bỏ hiện thực, xây dựng một chế độ mới. Đây cũng là hạn chế của hầu hết các tờ báo cách mạng đương thời.
Tân tiến ra đời, phát triển đúng vào dịp Đông Dương đại hội đang được ráo riết chuẩn bị ở khắp Nam Kỳ. Chính vì vậy mà số bài viết của Phan Ngọc Hiển dành cho phong trào này chiếm một lượng không nhỏ. Tuy nhiên không như một số người mắc chứng ảo tưởng, quá kỳ vọng vào phái đoàn điều tra của Mặt trận Bình dân, Phan Ngọc Hiển có cái nhìn tỉnh táo, thực tế hơn “Điều cần nhứt chúng ta đừng quá ỷ lại vào người mà trái lại phải tin ở sức ta trước đã. Ta không chỉ vết thương, Đốc-Tờ biết để thuốc vào đâu? Ta không tranh đấu, bọn này đâu nhờ đến bàn tay sắt bóp chặt của nó” - Bài Mặt trận Bình dân. Qua các nội dung Một bài tâm huyết kính dâng ông Justin Godart và Bài tâm huyết kính dâng cho quan Tổng trưởng Moutet và quan Toàn quyền Brévié, Phan Ngọc Hiển yêu cầu các nhân vật quyền thế này nên sâu sát hơn với nội tình của dân bản xứ, chớ nên tin vào những con số do chính quyền thuộc địa cung cấp. Nhân dịp này Phan Ngọc Hiển còn viết một loạt bài tố cáo tội ác cũng như các chính sách cai trị hà khắc của bọn phản động Pháp đối với Đông Dương. Ông coi “lạm quyền phải là hột giống của phiến loạn. Lạm quyền đồng tội với phiến loạn”. Ông đặt câu hỏi “Ai lạm quyền?” rồi lại tự trả lời “Chỉ có người được chính phủ giao quyền”. Trên cơ sở này, Phan Ngọc Hiển quy trách nhiệm cho chính phủ về tình trạng lạm quyền tràn lan khắp nơi, nhất là nông thôn, coi đây là nguyên nhân thúc đẩy dân chúng làm loạn. Để khắc phục tình trạng này, theo ông, cần “Mở rộng quyền cử tri”. Một biện pháp quá ngây thơ, ấu trĩ, nhưng lại phù hợp với tình hình lúc đó. Ngoài nội dung trên, Phan Ngọc Hiển còn đi sâu vào tìm hiểu tệ lậu của ngành y tế (Bài Nhà thương), về sự lộng hành của các ông vua rừng (Bài Về vụ kiểm lâm Cà Mau), đòi xoá bỏ chế độ giam giữ tù chính trị (bài Chúng tôi cũng ước mong ân xá chính trị phạm), phê phán đám dân biểu “giá áo túi cơm” (bài Tôi hỏi ông Bùi Quang Chiêu), lên án chính sách độc quyền (bài Vấn đề độc quyền nước mắm)... Có thể nói các bài viết của Phan Ngọc Hiển luôn có giá trị thực tiễn, thời sự. Vấn đề ông đặt ra tuy có vẻ cụ thể nhưng thực chất chúng lại mang tính khái quát, điển hình khá cao, luôn mới đối với mọi chế độ chính trị xã hội khác nhau.
Cũng như bao thanh niên có chí hướng khác, Phan Ngọc Hiển quyết tâm dành trọn đời mình cho cách mạng, cho quần chúng lao khổ. Ông biết gạt đi những gì riêng tư để toàn tâm toàn ý với lẽ sống chung. Trong bước đường hoạt động của mình, trái tim ông đã nhiều lần rộn rã, khắc khoải trước những bóng hồng. Nhưng rồi, ông phải chôn chặt kỷ niệm để đi theo tiếng gọi của hồn thiêng sông núi. Hoá thân vào nhân vật Quỳ (bài Mẹ hay chàng) Phan Ngọc Hiển nói rõ lòng mình: “Em, anh quyên sinh vì nước, em hy sanh vì tình mới đáng người chung thuỷ. Lúc thái bình chúng ta là bạn văn chương... Cơn quốc loạn ai là hồn nghĩa sĩ. Anh đã thường nói với em rằng “Anh yêu em chỉ trông ngày nhờ nụ cười của em mà gánh nỗi non sông, đoạt đặng cả mối hy vọng cao trọng. Bây giờ ngày đó đã đến vậy.” Giọt lệ giai nhân không làm chùn bước tráng sĩ, Phan Ngọc Hiển quan niệm về tình yêu và lý tưởng hết sức rõ ràng. Dưới đây chỉ có thể là tình yêu và lý tưởng của người cộng sản:

“Anh không thể nào lưu luyến với em mãi
Em yêu anh sao bằng hai mươi lăm triệu đồng bào,
Nếu ngày nào đời anh là đời đau khổ!
Một mình em không thể an ủi được lòng anh!
Thôi đi, em có yêu anh, hãy trông vào Tổ quốc
Em có nhớ em hãy ngó lại đồng bào!...”


Sau gần 7 tháng giam cầm, xét xử, ngày 12.7.1941, Thực dân Pháp đưa Phan Ngọc Hiển và 9 đồng chí có liên quan đến cuộc khởi nghĩa Hòn Khoai ra xử bắn tại sân vận động thị xã Cà Mau trước sự chứng kiến của hàng ngàn người dân. Không biết trong đám đông đó có cô Hương, cô Cúc, cô Hường, những người đã từng thề non hẹn biển với Phan Ngọc Hiển qua các trang viết của ông hay không. Ai? Ai là người trong số họ đã nhỏ những giọt nước muộn màng khi ông ngã xuống? Trước cái chết điều đó đâu còn quan trọng nữa, chỉ chắc chắn là hình ảnh Phan Ngọc Hiển sẽ khắc dấu mãi mãi trong trái tim người dân nơi đây. Ông sẽ là ngọn hải đăng không bao giờ tắt của cả vùng biển nghèo khó nơi tận cùng của Tổ quốc nàyr

Phan Khôi: Một nấm mồ riêng ta với ta

Vào một buổi sáng mùa đông lạnh lẽo năm 1959, trên con phố nhỏ, cổ kính, vắng heo hút, một chiếc xe tang nhỏ xuôi về hướng nghĩa trang Hợp Thiện. Đi chầm chậm phía sau là vài người đàn bà với những bước chân nặng nề, mệt mỏi. Mưa phùn làm ướt lạnh những mái đầu xơ xác. Không một tiếng khóc, không một tiếng ơ hờ ai oán, cũng không có tiếng kèn, tiếng trống tiễn đưa. Cái không gian tĩnh lặng, rờn rợn thỉnh thoảng bị phá vỡ bởi tiếng bánh xe nảy lên, nghiến ken két trên con đường đá gồ ghề. Tất cả như đang trôi dần về cõi hư vô.

Bộn bề trăm mối vấn vương
Người qua đường không mấy ai biết kẻ già nua, khô đét nằm trong cỗ quan tài rẻ tiền, ọp ẹp trên chính là nhà văn, nhà báo Phan Khôi, một cái tên lẫy lừng, đã từng khuynh đảo làng báo Việt Nam mấy chục năm trường, người đã được tầng lớp văn nhân- ký giả đương thời thừa nhận là Ngự sử trên văn đàn.
Phan Khôi sinh ngày 20-8-1887 (có tài liệu viết 6-10-1887) tại làng Bảo An, xã Điện Quang, huyện Điện Bàn tỉnh Quảng Nam, trong một gia đình có truyền thống Nho học. Ông nội Phan Khôi là án sát Phan Nhu, thân phụ là cụ Phó bảng Phan Trân, tri phủ Diên Khánh, còn thân mẫu là Hoàng Thị Lệ (con gái của Tổng đốc Hoàng Diệu). Theo truyền thống gia đình, từ bé Phan Khôi đã được học chữ Hán, nổi tiếng là thông minh, ham học hỏi. Tuy nhiên, càng lớn, tư tưởng cựu học càng rời xa ông. Đã không ít lần, Phan Khôi không ngại ngần tranh luận về xu thế của thời đại với cha và ông nội. Dù lý luận vẫn còn non nớt, nhưng ông không bao giờ từ bỏ quan điểm của mình. Cái đức tính ngay thẳng, cương trực, đôi khi ngang ngạnh rất đặc trưng của người Quảng Nam này đã theo Phan Khôi đến suốt cuộc đời.
Khi 19 tuổi (1905), vâng lời cha, Phan Khôi ra Huế dự thi Hương nhưng chỉ đậu Tú tài. Lần đầu được sống xa gia đình, được chứng kiến tận mắt biết bao điều mới lạ, ông mới thấy cuộc đời này lớn quá, có biết bao điều để chàng trai trẻ khám phá. ý tưởng thoát li gia đình, thoát khỏi cái làng quê nghèo khó bắt đầu nhen nhúm trong ông. Cũng vào quãng thời gian này, (1906- 1908), một số nhân sỹ miền Trung như Phan Chu Trinh, Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng đã nhóm lên phong trào Duy tân sôi nổi trong cả nước. Hưởng ứng phong trào, Phan Khôi là một trong những người đầu tiên ở Quảng Nam cắt đi cái búi tóc, biểu tượng của chế độ phong kiến đã đè nặng tư tưởng người dân Việt Nam hàng trăm năm nay. Sau đó, Phan Khôi quyết định ra Hà Nội học chữ quốc ngữ và chữ Pháp, tham gia nhiều hoạt động của trường Đông kinh nghĩa thục, nơi đào tạo nhiều nhà yêu nước nổi tiếng sau này. Các phong trào trên hoạt ngày càng sôi nổi, năm 1908, nhiều người, bị bắt giam, bị giết hại. Phan Khôi chạy xuống Nam Định, Hải Phòng ẩn náu, học chữ Pháp với Nguyễn Bá Học. Được một thời gian ông quay về quê hoạt động trong phong trào Văn thân cùng Huỳnh Thúc Kháng. Khi tình hình dịu đi, Phan Khôi ra Huế theo học tại trường dòng Pellerin (1909). Cụ Phó bảng Phan Trân mất, Phan Khôi về quê để tang cha, mở trường dạy học. Cũng trong thời gian này, ở miền Trung xảy ra vụ đấu tranh đòi giảm xâu, giảm thuế. Mặc dù không tham gia, nhưng vì có bài thơ Dân quạ đình công nên Phan Khôi và nhiều người khác bị bắt giam tại nhà lao Hội An. Trước khi chiến tranh thế giới lần thứ nhất nổ ra (1913), A. Sarraut ký lệnh tổng ân xá, Phan Khôi được tha, trở lại quê nhà, mở lớp dạy chữ Hán. Cũng thời gian này ông lập gia đình với ái nữ của cụ Lương Thúc Kỳ, giáo viên trường Dục Thanh, là người bạn thân thiết với gia đình.
Có thể nói, sự nghiệp làm báo của Phan Khôi đã bắt đầu từ năm 1907, khi ông viết nhiều bài cho tờ Đăng cổ tùng báo (Tờ báo của những người theo nhóm Đông kinh nghĩa thục). Một số bài được ông ký bởi bút hiệu Tú Sơn (Tout Seul- Có nghĩa tiếng Việt là cô đơn, một mình). Cái bút hiệu này đã vận vào ông cho đến ngày nhắm mặt xuôi tay. Năm 1916, Phan Khôi rời làng quê ra Hải Phòng làm thư ký cho công ty đường thuỷ của Bạch Thái Bưởi, được hơn 1 năm, nhờ sự giới thiệu của Nguyễn Bá Trác, ông tham gia làm cho tờ Nam Phong tại Hà Nội. Chỉ được một thời gian ngắn, do bất đồng chính kiến với chủ bút Phạm Quỳnh, Phan Khôi bỏ vào Nam làm cho tờ Lục tỉnh tân văn. Nhưng cũng chỉ được mấy tháng, vì bài báo Giải đại ý bài diễn thuyết của quan Toàn quyền Sarraut về cuộc Đông dương tự trị đăng trên hai số 14-5 và 21-5-1919, mà ông bị cho nghỉ việc. Với bút danh Chương Dân, Phan Khôi đã chỉ ra rằng: “Chữ Đông dương tự trị” đó nghĩa là phủ Toàn quyền Đông dương đối với mẫu quốc mà được quyền tự trị, chứ không phải người Đông dương đối với nước Lang Sa mà được quyền tự trị đâu”, ý tác giả muốn nói là A. Sarraut đòi quyền tự trị là đòi thêm quyền cho mình, chứ không phải vì quyền lợi của người dân Đông dương. Đến năm 1920, ông trở ra Hà Nội viết cho Thực Nghiệp dân báo (Số 1 ra ngày 12-7-1920). Khi tờ Hữu Thanh ra mắt (1-8-1921) do Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu làm chủ bút, đã mời Phan Khôi tham gia. Trong quãng thời gian này, Phan khôi dịch Kinh thánh cho Hội Tin lành và hoàn thành cuốn Nam âm thi thoại (sau đổi là Chương Dân thi thoại)
Nhận thấy báo chí miền Bắc vẫn còn những rào cản, khó đăng tải hết những quan điểm có tính cách tân của mình, Phan Khôi một lần nữa quyết định vào Nam. Đây cũng là lúc tờ Đông Pháp thời báo ra mắt (2-5-1923), Tuy nhiên, không hiểu vì lý do gì, Phan Khôi không ở Sài Gòn mà xuống Cà Mau ở nhờ tại đồn điền của một người bạn, đọc sách, viết bài cộng tác với các báo và hoàn thiện dần vốn tiếng Pháp của mình, thông qua thư từ qua lại với nhà báo Djean de la Bâtie. Vào cuối năm 1927, Diệp Văn Kỳ và Nguyễn Văn Bá, mua lại tờ Đông Pháp thời báo của ông Nguyễn Kim Đính và bắt đầu tiến hành những thay đổi mạng mẽ. Và Phan Khôi đã được Diệp Văn Kỳ mời tham gia làm cộng tác viên đặc biệt bên cạnh bộ Biên tập gồm nhiều kẻ sỹ đất Bắc như Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, Ngô Tất Tố. Với bút danh Tân Việt, Phan Khôi đảm nhiệm mục Câu chuyện hàng ngày. Các bài viết trên mục này thường mang hình thức tiểu phẩm, một thể loại có nguồn gốc từ báo chí Pháp đã được Phan Văn Trường ứng dụng trên các tờ La Clochefêlée và L’ Annam dưới tên gọi Tiểu thuyết hoá chính trị. Nếu như Phan Văn Trường viết tiểu phẩm bằng tiếng Pháp, theo lối chính luận, thì Phan Khôi lại chủ yếu thể hiện bằng tiếng Việt, khai thác khá triệt để yếu tố hài hước (hài đàm). Hình thức này có lẽ bắt nguồn từ hai nhà báo Pháp Clément Vautel (1876-1954) và Charles de la Fouchardiere (1874-1946) viêt trên các tờ Le Journal và L’ Oeuvre xuất bản ở Paris. Sự ảnh hưởng và sáng tạo này của Phan Khôi đến nay vẫn được báo chí hiện đại sử dụng rất hiệu quả.
Sau khi ông Diệp Văn Kỳ xin phép ra tờ Thần chung (La Cloché du Martin, số 1 ra ngày 7-1-1929) mục Câu chuyện hàng ngày chuyển sang báo này. Theo một số tài liệu, thỉnh thoảng Diệp Văn Kỳ cũng viết cho mục này, nhưng không nhiều, cùng ký bút danh Tân Việt, đa phần là của Phan Khôi. Thần chung cũng chỉ tồn tại được hơn 1 năm, ngày 22-3-1930, Toàn quyền Đông dương ra nghị định đóng cửa tờ báo này vì những lý do chính trị. Ngoài Câu chuyện hàng ngày, Phan Khôi còn viết rât nhiều bài có tính chất khảo cứu trên các mục khác. Trên Đông Pháp thời báo và Thần chung Phan Khôi chủ yếu dùng các bút danh Chương Dân, CD, Khải Minh tử, có khi ký Thần chung, thậm chí không đề tên. Nhiều khi ông dùng tên thật dưới những bài có tính chất học thuật, tư tưởng.
Vì là cộng tác viên nên Phan Khôi không có nhiều ràng buộc với Thần chung. Ngoài những bài viết cho Thần chung, ông còn dành một lượng bài rất lớn cho tờ Phụ nữ tân văn (số 1 ra ngày 2-5-1929). Trên báo này ông viết hàng trăm bài, có bài kéo dài hàng chục kỳ. Tên tuổi ông nổi như cồn trên cả nước. Theo một số người đương thời kể lại, nhiều đọc giả mua Phụ nữ tân văn chỉ để đọc bài của Phan Khôi. Nghiên cứu những bài viết của Phan Khôi thời kỳ này, sẽ dễ dàng nhận thấy, ông là một trong những cây bút hàng đầu tạo ra sự thay đổi về văn hoá, học thuật, văn chương, cho người Việt những năm trước cách mạng, trong đó có việc đặt cơ sở cho việc hình thành và phát triển phong trào thơ mới.
Như trên đã nói, ngày 22-3-1930, tờ Thần chung bị rút giấy phép. Đây cũng là lúc tờ Trung lập (số 1 ra ngày 16-1-1924, vốn là bản tiếng Việt của tờ báo tiếng Pháp Impartial do Lachevrotiere một người Pháp lai Việt sáng lập), có sự thay đổi người quản lý, chuyển từ Nguyễn Phú Khai sang tay Trần Thiện Quý và tiếp tục rơi vào cảnh thua lỗ. Chớp lấy cơ hội Diệp Văn Kỳ và Nguyễn Văn Bá mua lại tờ báo này, ra mắt với hình thức mới từ 2-5-1930. Bộ Biên tập của Thần chung trước đây lúc này đã tan tác. Đào Trinh Nhất sang làm chủ bút Phụ nữ tân văn, Ngô Tất Tố trở ra Bắc, chỉ còn có Bùi Thế Mỹ, Phan Khôi sang Trung lập. Tiếng tăm của Phan Khôi lúc này đã rất vang dội. Ông được coi là người đứng đầu nhóm “Tam kiệt” của xứ Nam kỳ gồm Phan Khôi, Đào Trinh Nhất và Bùi Thế Mỹ. Cũng có thể nói, để thu hút bạn đọc, Trung lập hầu như chỉ còn biết trông cậy vào các bài báo của Phan Khôi. Chính vì vậy mà trên tờ báo này, Phan Khôi có lượng bài lớn nhất trong sự nghiệp làm báo của mình. Riêng trên mục Những điều nghe thấy do ông đảm nhiệm (Thường ký bút danh Tha Sơn, Thông reo), ông đã có 600 bài, được bạn đọc vô cùng tán thưởng. Sau này, khi Phan Khôi đã bỏ đi, Trung lập vẫn duy trì mục này do nhiêù người viết, trong đó có cả chí sỹ Nguyễn An Ninh, và vẫn sử dụng bút danh Thông reo để giữ chân bạn đọc. Ngoài hai bút danh vừa nói, Phan Khôi đôi khi ký tên thât hoặc ký là Trung lập, có bài để trống tên.
Ngoài 4 tờ báo chính trên, trong quãng thời gian đầu những năm 1930, thỉnh thoảng Phan Khôi còn viêt cho báo khác, trong đó có cả những tờ báo tiếng Hoa như Quần báo, Hoa kiều nhật báo, Đông Tây tuần báo… Giữa năm 1933, Phan Khôi trở ra Bắc, cộng tác với các tờ Thực nghiệp dân báo, Phụ nữ thời đàm. Một năm sau ông vào Huế làm cho tờ Tràng An, sau đó đứng ra sáng lập tờ Sông Hương. Đây là lần đầu tiên Phan Khôi có tờ báo của riêng mình. Đến năm 1937, ông nhượng lại tờ báo này cho Phan Đăng Lưu, biến Sông Hương thành một tờ báo của những người Cộng sản. Trong thời gian ở Huế, ông vừa viết báo vừa dạy học tại trường tư thục Hồ Đắc San. Năm 1937 Phan Khôi quay vào Nam, dạy chữ quốc ngữ và Hán văn cho trường Chấn Thanh ở Sài Gòn. Ngoài ra ông vẫn liên tục có bài cho các tờ Hà Nội báo, Đông dương tạp chí (của Nguyễn Giang, con trai học giả Nguyễn Văn Vĩnh), Dư luận, Thời vụ, Phổ thông bán nguyệt san. Năm 1941, trường Chấn Thanh chuyển về Đà Nẵng, Phan Khôi về quê, viết theo đơn đặt hàng cho các báo Sài Gòn, Hà Nội.

Một thân vò võ nhả tơ cho đời
Cho đến nay, chưa có ai làm con số thống kê những bài báo của Phan Khôi. Chỉ riêng số bài mà nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân tìm được đã lên con số hàng nghìn. Điều đáng nói là, hầu như bài nào cũng đạt đến sự chuẩn mực cao. Có những bài, cho đến nay, vẫn còn nguyên giá trị thời sự, vẫn có ý nghĩa khoa học, nghệ thuật, tư tưởng về lâu dài. Một điều dễ nhận thấy là các bài báo của Phan Khôi không khuôn vào một hoặc vài lĩnh vực, mà đề cập một cách khá toàn diện mọi mặt đời sống xã hội, từ các vấn đề của lịch sử đến ngôn ngữ, văn hoá, chính trị… Đối tượng phản ánh của ông cũng rất đa dạng, từ Toàn quyền Đông dương, vua quan An Nam, đến các tầng lớp quí tộc, trung lưu, trí thức, thậm chí cả giai cấp bình dân. Các vấn đề thế giới liên quan ít nhiều đến tình hình chính trị Việt Nam, ông cũng không bỏ qua. Và ở vấn đề nào, ông cũng tỏ ra là người hết sức tâm huyết, nặng lòng với lợi ích quốc gia.
Một trong những đối tượng được Phan KhôI phản ánh nhiều nhất là vai trò của phụ nữ đối với xã hội. Chủ trương giải phóng phụ nữ, đưa phụ nữ thoát khỏi những lề thói đạo đức phong kiến xưa luôn hiển hiện trong sự nghiệp cầm bút của ông. Đây cũng là cách để ông thực hiện chủ trương duy tân của mình. Khi bàn về phụ nữ, Phan Khôi viết trên nhiều báo, nhưng tập trung nhất vẫn là Phụ nữ tân văn, Phụ nữ thời đàm. Đáng chú ý là các bài Về văn học của phụ nữ Việt Nam, Văn học với nữ tánh, Theo tục ngữ phong dao xét về sự sanh hoạt của phụ nữ nước ta, Một cái gương sáng cho người làm mẹ, Tơ hồng nguyệt lão với hôn nhân tự do, Chữ trinh: cái tiết với cái nết, Luận về phụ nữ tự sát, Nữ công, Chữ quốc ngữ ở Nam kỳ với thế lực của phụ nữ… Theo Phan Khôi, mọi sự bất bình đẳng giới trong xã hội đều bắt nguồn từ quyền được đi học hay không của người phụ nữ. Ông kêu gọi người phụ nữ hãy xoá bỏ tự ti, tham gia vào các hoạt động xã hội, nhất là văn học: Tôi nghĩ rằng đương thời buổi nầy mà đám nữ lưu mình còn chưa chịu ra nhận lấy gánh văn học làm gánh riêng của mình, ấy là một sự bất lợi cho loài người, cho xã hội. Thiệt vậy, vì đời nay là đời trọng khoa học cơ xảo, tranh tài đua sức với nhau, ta nên để cho đờn ông họ làm những công việc ấy, vì sức của họ xứng đáng với công việc. Còn việc văn học là việc nhẹ, ta nên gánh đỡ cho họ là phải”- PNTV số 1 ngày 2-5-1929. Thông qua việc nhấn mạnh đến vai trò của phụ nữ đối với văn học, Phan KhôI muốn nhắn nhủ chị em, không nên chỉ biết đến góc bếp tối tăm, mà hãy đến với học vấn, từ đó mới có điều kiện khẳng định vị thế của mình. Dùng lý lẽ chưa đủ, ông còn viện dẫn những thành tựu của văn học nữ Tàu (Trung Quốc) để làm tấm gương cho phụ nữ Việt Nam noi theo. Nhân bàn đến chuyện đi học của phụ nữ, ông phê phán kịch liệt thủ đoạn tinh vi của chế độ phong kiến: Đại để ở dưới cai chế độ xã hội này, hễ là dân và đàn bà thì phải chịu khổ. Dân bị kẻ cầm quyền áp chế; đàn bà bị đàn ông áp chế. Kẻ cầm quyền làm cho dân ngu đi, đặng để đè ép, cũng như đàn ông làm cho đàn bà ngu đi đặng dễ sai khiến” PNTV số 3 ngày 16-5-1929… Tuy nhiên, quan niệm của Phan Khôi đôi khi cũng thái quá, dễ dẫn đến cực đoan, chẳng hạn như việc ông nhấn mạnh, chỉ phụ nữ mới có quyền sáng tác văn học là bởi: 1.Vì cái đẹp là cái cốt của văn học, mà đàn bà là biểu hiện cho sự đẹp, cho nên trong văn học hay tả về đàn bà cũng như trong mỹ thuật hay đắp về hình mỹ nhân
2. Vì văn học trong đường tình cảm, mà nói chuyện đàn bà thì khiến cho người ta dễ cảm cho nên nói về đàn bà nhiều hơn.
Phan Khôi cũng nhiều lần bàn về các vấn đề gia đình. Ông rất lên án quan niệm “Cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”. Ông đề cao tự do hôn nhân nhưng lại không tán thành ly hôn. Theo ông, hôn nhân tan vỡ hoặc tình trạng ly hôn tràn lan chính là nguồn gốc của bất ổn gia đình, rối loạn xã hội, làm mất đi những giá trị tốt đẹp của truyền thống (Bài Tơ hồng Nguyệt lão với hôn nhân tự do). Ngoài ra ông còn có những giải nghĩa rất sâu sắc những khái niệm: Chữ Trinh, cái nết với cái tiêt của người phụ nữ. Theo ông, chữ trinh cũng rất quan trọng nhưng không quý bằng cái nết. Người phụ nữ có cái nết tốt, hẳn sẽ có được chữ trinh, đó là những cái thuộc về chủ quan con người. Phan Khôi đặc biệt lên án cái tiết (Theo nghĩa thủ tiết, tiết phụ), là sản phẩm khách quan, do sự độc đoán, ích kỷ của đàn ông đặt ra: Theo luân lý Tống nho nên pháp luật nước ta dầu không cấm hẳn đàn bà cải giá nhưng cũng cướp mất quyền lợi của người đàn bà cải giá. Một người đàn bà chết chồng mà đi lấy chồng thì luật bắt phải ra tay không, giao gia tài cho bên chồng, dầu của ấy là của vợ chồng đồng công mà taọ lập ra cũng mặc. Chồng chết có con trai, mà đi lấy chồng để kiếm phương thế nuôi con, sau lại về ở với con trong nhà chồng trước nữa, chết đi, không được thờ chung với chồng vào từ đường.
Đã hạ người đàn bà cải giá xuống, thì tưng người đàn bà thủ tiết lên. Nhà vua bèn ban chiếu sắc, cấp biển vàng, sinh biểu cho những người nào ở goá trọn đời hay là tự chết theo chồng. Những cái ân điển ấy thường tình lấy làm vinh hạnh lắm, song nghĩ kỹ ra, chẳng qua là cáI biển hiệu tham lam ích kỷ của đàn ông và cũng là cái xiềng để trói đàn bà lại. (Bài Chữ trinh: cái tiết với cái nết- PNTV số 21 ngày 19-9-1929). Có lẽ vì rất tâm huyết với đối tượng phụ nữ mà năm 1929, trên tờ Phụ nữ tân văn, Phan Khôi đã mở hẳn một diễn đàn xin ý kiến những nhân vật quan trọng về quyền và nghĩa vụ của người phụ nữ đối với xã hội.
Cái lối viết bảo vệ đến cùng quan điểm của mình (mà đôi khi mang tính chất bao biện) đã khiến Phan Khôi phải đương đầu với rất nhiều cuộc tranh luận sau này. Thực ra, ông có thừa trí tuệ để phân biệt giữa cái hợp lý với cái bất hợp lý. Ông thích tranh luận, và nhiều khi chấp nhận đứng về phía cái chưa (hoặc không) được xã hội thừa nhận, tranh cãi kịch liệt với đối thủ để làm bật ra chân lý nào đó, giúp nâng cao nhận thức cho độc giả. Chính vì vậy chuyện được thua đối với ông dường như vô nghĩa. Khi cảm thấy cuộc tranh luận như vậy là đủ, ông lại mở màn cho một cuộc tranh cãi khác, và người được hưởng lợi nhất bao giờ cũng là độc giả. Như chúng ta đã thấy, hầu hết báo chí Việt Nam vào những năm 1930 của thế kỷ trước đều có hình thức không đẹp, nên việc có bán được hay không phụ thuộc rất nhiều vào việc cho đăng tải các luồng dư luận trái chiều nhau. Một tờ báo khôn ngoan bao giờ cũng biết tạo ra và nuôI dưỡng các cuộc tranh luận, và Phan Khôi là người rất giỏi trong việc cuốn hút bạn đọc bằng các bài viết mang đầy cá tính và quan điểm riêng.
Trong sự nghiệp làm báo của mình, Phan Khôi đã khơi màn cho rất nhiều cuộc tranh luận lớn nhỏ, chẳng hạn như, năm 1929-1930, ông đã tổ chức cuộc thi viết về sử Nam trên tờ Thần Chung. Năm 1930, Phan Khôi bút chiến với Nguyễn Phan Long, lãnh tụ của đảng Lập Hiến về trách nhiệm của người cầm bút trước thời cuộc. Cũng trong năm này, trên các tờ Thần chung, Phụ nữ tân văn, Trung lập, ông viết rất nhiều bài tranh luận với Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim về vai trò của Nho giáo trong xã hội hiện đại, đề cập đến sự tha hoá của văn minh phương Tây đối với văn hoá á đông, trong đó có Việt Nam. Trong những năm 1931- 1932, trên các tờ Đông Tây, Trung lập, Phụ nữ tân văn, Phụ nữ thời đàm, Phan Khôi tiếp tục bàn về những di sản của nền quốc học cũ, gây được sự chú ý và tranh luận mạnh mẽ với nhiều học giả đương thời. Đặc biệt, trên tờ Phụ nữ tân văn số ra ngày 10-3-1932, Phan Khôi đã cho in bài thơ Tình già và tuyên ngôn Đem một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ của mình đã gây chấn động dư luận, tạo ra cuộc tranh luận chưa từng thấy trong giới văn nhân- ký giả cả nước. Cuối cùng, cách tân của ông được xã hội thừa nhận, và Phan Khôi trở thành một trong những người mở đầu cho dòng thơ mới nước ta. Năm 1933, trên tờ Phụ nữ thời đàm, Phan Khôi đã có loạt bài đề cập đến một số phạm trù của Triết học, tư tưởng gây nên cuộc tranh luận lớn giữa ông với nhà lý luận Mác-xít Hải Triều (Nguyễn Khoa Văn). Chuyện đúng- sai, về lâu dài, chúng ta chưa bàn đến, nhưng rõ ràng lối viết của Phan Khôi trong bài Văn minh vật chất và văn minh tinh thần (Phụ nữ thời đàm ngày 8-8-1933) là không phù hợp với xu thế chung lúc đó: Chúng ta, người Việt Nam đây phải tỉnh ngộ lại, phải thành thật nhận mình là thua kém, thua kém về vật chất bởi thua kém về tinh thần. Ta nên biết cái trình độ của ta, ước chừng nằm vào khoảng Trung thế kỷ (Moyen âge) ở châu Âu, còn tối tăm lắm, còn vụng dại lắm, chẳng có tinh thần gì đâu mà làm phách… Lối viết này đã vô tình làm nhụt đi nhuệ khí đấu tranh của dân chúng, đẩy họ rơi vào tâm trạng tự ti, làm cho giới trí thức chỉ còn biết chăm chăm vào đọc sách, không dám đương đầu với nhà cầm quyền thực dân. Tuy nhiên, vào những năm 1930, thật khó mà đòi hỏi Phan Khôi cũng như nhiều nhân sỹ, trí thức đương thời viết khác được. Đây là lúc phong trào cộng sản cũng như các phong trào yêu nước Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn. Sau cuộc khởi nghĩa Yên Bái, đặc biệt là sau khi phong trào Xô-viêt Nghệ- Tĩnh bị đàn áp, hầu hết các nhà cách mạng Việt Nam bị bắt, bị giết hại, người dân cũng như giới trí thức không biết bấu víu vào đâu, không còn cái đích nào để hướng tới. Báo chí lúc này (1930-1934), hầu như phải né tránh các vấn đề chính trị. Việc những người như Phan Khôi khuấy động dư luận trên các phương diện văn hoá, khoa học, xét trên mặt tích cực, đã góp phần lôi kéo người dân thoát ra khỏi cái vỏ ốc, tham gia vào các hoạt động xã hội, làm thức tỉnh ý thức trách nhiệm của mỗi người trước nội tình đất nước. Đấy là cá được và cũng là mục đích chính của Phan Khôi.
Nói tới hình thức hài đàm (tiểu phẩm), giới làm báo thường nhắc tới Phan Khôi, một trong những người đầu tiên sử dụng thể loại này ở Việt Nam. Cho đến nay, người ta mới tìm được khoảng 1000 bài tiểu phẩm của ông viết từ năm 1928- 1933, được ký bởi các bút danh Tân Việt, Tha Sơn, Thông reo. 1000 bài báo là 1000 vấn đề của đời thường. Có đọc các bài báo của Phan Khôi mới thấy được tầm trí tuệ của một nhân cách lớn. Cho đến giờ, có lẽ chưa có ai vượt được Phan Khôi riêng về thể loại tiểu phẩm. Lối viết của Phan Khôi không cầu kỳ, luôn đạt đến độ chuẩn mực về ngôn ngữ. Ông viêt đúng như những gì ông nghĩ, ông nói. Yếu tố gây cười luôn được đặt đúng chỗ, không bao giờ lên gân xuống cốt, không mang tính chất sinh lý. Chúng là kết quả của một trí tuệ siêu phàm, luôn ở một tầm cao để khái quát, đánh giá hiện thực. Vẫn là những chi tiết đó, nếu ở một cây bút bình thường, sẽ không phát huy hiệu quả, thậm chí phản tác dụng. Thủ pháp Phan Khôi hay dùng là mượn chuyện xưa để nói chuyện nay, mượn chuyện người để nói chuyện ta, dùng vật để nói người, dùng thần linh để nói thế sự, và nhiều khi chúng có ý nghĩa thời sự lâu dài. Chẳng hạn như bài Giải thơ La Fontaine, Phan Khôi viết: Trong những thơ ngụ ngôn của La Fontaine có một bài nói chuyện con ve ve với con kiến, đại lược rằng:
Con ve ve hát luôn trót một mùa hạ. Qua mùa đông, nó không còn có đồ gì ăn, bèn tới vay con kiến. Con kiến hỏi, mùa hạ bác làm gì? Con ve khai rằng tôi hát luôn. Kiến bèn trả lời rằng: Bác hát a? Thôi thì bây giờ bác múa đi!
Cái ý trong bài, nói con kiến không chịu làm phước cho con ve vay, không trợ cấp gì cho con ve cả, mà bảo con ve cứ múa hát.
Bài thơ ấy ông Fontaine chẳng có ý chi lạ hơn là châm chích sở đốc lý thành phố Sài Gòn và châm chích luôn cả người An Nam ở đó.
Số là ở thành phố Sài Gòn có một sở làm phước, tiếng Pháp gọi là Bureau de Bienveillance. Theo lời một ông nghị viên hỏi ông đốc lý mới kỳ hội đồng gần đây, thì sở ấy chỉ giùm giúp cho người Pháp nào gần nghèo nàn mà thôi, người Pháp nào ở đây không có việc làm, đói túng, thì giúp tiền cho trở về bổn quốc; song người An Nam nào cũng lâm vào cảnh ấy mà muốn về quê quán mình ngoài Trung Bắc kỳ thì không hề giúp.
Trong sổ dự toán của thành phố lại có một món tiền trợ cấp cho mấy gánh hát Tây ở đây. Bữa hôm hội nghị vừa rồi, các ông nghị đã quyết định trợ cấp cho một người Pháp kia là chủ gánh hát, mỗi lần diễn tuồng là hai trăm đồng.
Người An Nam ở đây có tiếng là hay hát. Hát bộ, hát cải lương, không những một mùa hạ mà quanh năm. Nào rạp ở Chợ Mới, nào rạp ở Chợ Đũi, nào rạp ở Đa Kao, nào rạp ở Cầu Mũi, có năm bảy rạp chứ không phải một rạp. ấy thế mà chẳng nghe ai trợ cấp cho đồng nào hết.
Không trợ cấp, không làm phước, mà đêm nào cũng nghe trống đánh thùng thùng làm vui cho thành phố, tô điểm cái cảnh thái bình cho thành phố, thì người An Nam ở đây chẳng khác nào con ve ve của ông La Fontaine… (Thần chung số 112 ngày 4-6-1929).
Mặc dù trong bài Chấm văn Tây, Phan Khôi có viết: Mục Câu chuyện hằng ngày nầy không phải chỗ để nói quốc sự; huống chi chuyện về tay Tân Việt là anh có cái tánh nhút nhát không ưa bô-ly-tich (Chính trị- TG), cho nên một chữ về quốc sự cũng không thèm nói đến, nhưng thực tế nhiều bài viết của Phan Khôi vẫn mang đậm màu sắc chính trị, dù chúng được thể hiện bởi các thủ pháp gián tiếp, ẩn dụ, bóng gió xa xôi. Sự châm chích của ông nhiều phen khiến nhà cầm quyền phải bầm gan, tím ruột mà không làm gì được. Trong bài Cộng sản mà không ngờ (Thần chung số 227 ngày 21-12-1929) ông tưng tửng kể: Vào ngày lễ đình chiến, dân tỉnh Hậu Giang nhận được lệnh phải treo cờ tam sắc (cờ Pháp), một nông dân nghèo không có tiền mua cờ nên tiện trong nhà có mảnh vải điều nên treo đại lên (Thiếu hai sắc trắng và xanh). Anh bị bắt giải lên quan. Sau khi biết sự tình, quan tha và dặn từ nay không được dùng màu đỏ, vì đó là màu cộng sản. Về nhà thấy vợ ăn trầu, có nước cốt màu đỏ, anh ta liệng hết đồ ăn trầu đi và cấm vợ từ nay không được dùng thứ đó nữa… Có thể nói, cái lối viết hài hước, châm chọc, ít khi mang tính công kích, phảng phất trong hầu hết các tiểu phẩm của Phan Khôi, tạo nên phong cách rất riêng của ông, cho đến nay ít người bắt chước được.

Người nơi chín suối ngậm cười được chăng?
Trong suốt cuộc đời của mình, ngoài sự nghiệp làm báo, Phan Khôi còn viết và dịch sách (một số cuốn in lại các bài trên báo), có thể kể ra đây một số tác phẩm tiêu biểu như Bàn về tế giao (1918), Chuyện các bậc tiền bối (1919), Giáo dục nghiên cứu (1919), Học thuyêt và đạo đức Khổng tử (1924), Nam âm thi thoại (1919, đến 1936 thì đổi thành Chương Dân thi thoại), Tiếng An Nam đàng trong với đàng ngoài,Trở vỏ lửa ra (1939), Việt ngữ nghiên cứu (1955), Mộng trung mộng, Hoạn hải ba đào, Lỗ Tấn truyện ngắn và tạp văn… Trong đó có tập Nắng chiều chưa in, đó là chưa kể những công trình dịch cho chính quyền Việt Minh thời kỳ kháng chiến chống Pháp…
Nếu như trước Cách mạng tháng Tám, người đời nhớ đến Phan Khôi là bởi những bài báo phản ánh thân phận và phê phán thói hư tật xấu của con người dưới chế độ nô dịch, thì nửa thế kỷ nay, người ta nhắc tới ông vì những mối liên hệ với nhóm Nhân văn- Giai phẩm. Bao quanh Phan Khôi là một đám sương mù, và người ta hiểu ông như là hiện thân của sự phản bội. Thực ra, sự việc không đến mức nghiêm trọng như vậy.
Như chúng ta đã biết, sau khi tiếp quản thủ đô và các tỉnh phía Bắc, Đảng và Nhà nước ta vẫn duy trì cung cách quản lý báo chí như thời cách mạng tháng Tám, nghĩa là hết sức tôn trọng quyền tự do ngôn luận, tạo mọi điều kiện phát triển báo chí tư nhân, kể cả báo chí đối lập. Đây cũng là lúc tầng lớp văn nghệ sỹ thoát khỏi bao nỗi khó khăn thiếu thốn nơi rừng núi kháng chiến, trở về thủ đô xây dựng cuộc sống mới. Nhiều người ngây thơ tưởng rằng, chiến tranh đã kêt thúc, it nhất là đối với nửa phần đất nước phía Bắc. Họ tin rằng mọi sáng tác và cung cách quản lý văn nghệ thời kỳ kháng chiến giờ sẽ phải thay đổi, trả lại cho văn nghệ sự tự do tuyệt đối. Đòi hỏi này là chính đáng, nhưng hoàn toàn không phù hợp với tình hình lúc đó. Vào giai đoạn này, ở nửa phần phía Nam đất nước, chính quyền Sài Gòn cùng với đế quốc Mỹ ráo riết truy bắt và giết hại lực lượng kháng chiến, đặc biệt là các đảng viên cộng sản. Họ luôn tìm cách thôn tính miền Bắc XHCN. Đây cũng là lúc tình hình chính trị, xã hội miền Bắc chưa hoàn toàn đi vào ổn định, đời sống của nhân dân gặp rất nhiều khó khăn. Những đối tượng phản động nằm vùng có cơ hội là nổi dậy, kích động dân chúng bạo loạn, cướp chính quyền. Đúng vào thời điểm nhạy cảm này, một số văn nghệ sỹ, thông qua báo chí, đấu tranh đòi tự do sáng tác rất dễ gây ra những xáo trộn xã hội, ảnh hưởng tới cuộc đấu tranh thống nhất đất nước. Tác giả Hoàng Văn Chí, trong cuốn sách Trăm hoa đua nở trên đất Bắc (Mặt trận bảo vệ tự do văn hoá, xuất bản tại Sài Gòn năm 1959) cho rằng: Phong trào Bách hoa tề phóng bách gia tranh minh ở Trung Quốc, việc lên án tệ sùng bái cá nhân của Krushchev sau Đại hội lần thứ 20 tại Liên Xô, sự tiếm quyền của Gomulka ở Ba Lan, vụ bạo loạn tại Budapest (Hunggari) đã có những tác động mạnh mẽ đến hành vi của các văn nghệ sỹ trong nhóm Nhân văn- Giai phẩm và coi cuộc đấu tranh của nhóm này như là kết cục tất yếu của lịch sử… Nhận định như vậy là không chính xác, bởi đơn giản là, tất cả những sự kiện trên đều xuất hiện sau khi tờ Giai phẩm mùa xuân đã ra mắt bạn đọc được mấy tháng (2-1956), đó là chưa kể từ năm 1955, ở miền Bắc đã lác đác xuất hiện những bài phê bình của Trần Dần, Tử Phác, Lê Đạt, Hoàng Cầm… đối với tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu. Dường như tất cả chỉ là tự phát.
Trong Giai Phẩm mùa xuân, Phan Khôi không có bài. Phải đến Giai phẩm mùa thu (Tập 1) ra ngày 29-8-1956, ông mới tham gia với bài Phê bình lãnh đạo văn nghệ. Ngày 15-9-1956, bán nguyệt san Nhân văn ra số đầu tiên và Phan Khôi giữ vai trò chủ nhiệm. Có lẽ một phần bởi cái chức danh này mà mọi người qui kết ông là phần tử cầm đầu nhóm Nhân văn- Giai phẩm. Thực ra, vai trò của Phan Khôi trên tờ báo này là khá mờ nhạt, là “hữu danh vô thực”. Những người khởi xướng tờ báo như Lê Đạt, Nguyễn Hữu Đang, Hoàng Cầm, Trần Dần, lúc này vì những lý do tế nhị, đều không thể đứng tên được. Họ nhờ Phan KhôI làm chủ nhiệm chỉ là trên danh nghĩa, vì tiếng tăm cũng như tuổi tác của ông mà thôi. Cái làm cho Phan Khôi đến giờ vẫn chưa được “Tha thứ” chính là bài Phê bình lãnh đạo văn nghệ. Bây giờ, đọc bài báo này, thấy cũng không có gì ghê gớm, nhưng vào thời đó, nó đã gây chấn động dư luận, nhất là đối với những “Chức sắc” trong giới văn nghệ. Bài báo này đã phản ánh khá chân xác tâm tư của anh em văn nghệ sỹ thời bấy giờ. Ông chỉ rõ, thứ văn nghệ tô hồng, một chiều là cần thiết và có tác dụng vô cùng to lớn trong việc cổ vũ tinh thần đấu tranh của quân và dân ta trong kháng chiến. Nhưng khi hoà bình lập lại, thứ văn chương có tính ngắn hạn và rất mờ nhạt yếu tố nghệ thuật này cần phải được thay thế, mới phát huy được hết tính sáng tạo của giới cầm bút. Ông đã chỉ ra hậu quả của một nền văn học nghệ thuật được đặt dưới sự chỉ đạo cứng nhắc: Nhược bằng bắt mọi người viết phải viết theo một lối với mình, thì rồi đến một ngày kia, hàng trăm thứ hoa cúc đều phải nở ra cúc vạn thọ hết. Mà nếu cứ thế này mãi, than ôi, cái ngày ấy cũng chẳng xa đâu!. Với quan điểm này Phan Khôi đã bị công kích dữ dội, nhưng đến nay, chúng ta phải thừa nhận là ông có nhãn quan nhìn xa trông rộng. Nghị quyết Đại hội Đảng VI (1986) và nghị quyết của nhiều kỳ đại hội sau đó, Đảng ta đã chỉ ra hậu quả lâu dài, khó khắc phục của thứ văn nghệ chính trị đơn thuần và kêu gọi giới cầm bút phải loại bỏ thứ văn chương tô hồng, một chiều, phải coi trọng trí sáng tạo và tự do của văn nghệ sỹ.
Cũng trong bài Phê bình lãnh đạo văn nghệ, Phan Khôi đã phản ánh một cách trung thực về vụ trao giải thưởng văn học 1954-1955. Vì có chân trong Ban Chung khảo, nên ông đã cảm nhận được hết những trò lố bịch của một số người “Cầm cân nảy mực”. Ông thẳng thắn phơi bày thực trạng những người có chức có quyền, đồng thời có chân trong ban giám khảo lại chấm giải cao cho chính tác phẩm của mình. Đây chính là nguyên nhân gây nên sự bất bình của các văn nghệ sỹ, dễ bị kẻ thù lợi dụng, xuyên tạc.
Thấm thoắt “Vụ án Nhân văn- Giai phẩm” đã trôi qua được hơn 50 năm. Cái chưa hợp lý của nhóm này thì đã rõ. Họ đã đặt lợi ích riêng (dù chính đáng) lên trên lợi ích chung, vì vậy đã có những tác động không tốt tới công cuộc đấu tranh thống nhất đất nước của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta. Có lẽ đã nhận ra việc đối xử với nhóm Nhân văn- Giai phẩm trước đây có phần quá nặng nề, nên những năm gần đây, chúng ta đã mạnh dạn khôi phục quyền lợi, danh dự cho một số người. Những người như Trần Đức Thảo, Văn Cao, Nguyễn Hữu Đang, Trần Dần, Phùng Quán, Hoàng Cầm, Nguyễn Sáng, Đặng Đình Hưng… đều đã được khẳng định nhờ những đóng góp của họ bằng các giải thưởng Hồ Chí Minh, giải thưởng Nhà nước… Các tác phẩm của những người này đều đã được tái bản, phát hành rộng rãi. Vậy không lẽ chúng ta lại “quên” Phan Khôi? Thật là đáng tiếc quá! Lịch sử khó có thể sản sinh được một con người thứ 2 như ông. Có lẽ vì giận cuộc đời mà ông đã xoá sạch dấu tích của mình. Nghĩa trang, nơi chôn cất Phan Khôi giờ đã không còn dấu tích, thay vào đó là những công trình xây dựng. Không ai, kể cả Phan Khôi, biết thân xác của mình đang trôi dạt nơi đâu. Dưới tầng đất đen sâu thẳm vô định, đã lâu lắm rồi hương tàn, khói lạnh. Ông thì, vốn bản tính bất cần, nhưng chúng ta, những người còn sống, không cho phép mình làm thế, kẻo rồi hậu thế chê trách, oán than. Hãy bắt tay khi còn chưa muộn, khai quật di sản trả về cho một tượng đài. Làm được thế, ở nơi chín suối, lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng, Phan Khôi sẽ nở một nụ cười mãn nguyện. Còn chúng ta cũng thanh thản dõi nhìn về quá khứ và yên tâm hướng về tương lai.